LÍNH SƯ 2 CÓ LỆNH LÀ ĐI, ĐÃ ĐI LÀ ĐÉN, ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Kính gửi: CÁC BÁC, CÁC CHÚ CỰU CHIẾN BINH SƯ ĐOÀN 2








Cháu tên là: Lê Quang Nam là cháu ruột liệt sĩ Lê Quang Lâm - Sinh năm 1952, Quê Xã Thiệu Long, Huyện Thiệu Hóa, Tỉnh Thanh Hóa. Nhập ngũ tháng 8 năm 1970. Chức vụ Tiểu đội phó, đại đội 17-KN Theo giấy báo tử của BCHQS Tỉnh Thanh Hóa  (do trung tá Hoàng Minh Côn ký ngày 01/7/1974. Trong giấy báo tử ghi là: Hy Sinh ngày 26/9/1972 tại mặt trận phía Nam, thi hài được chôn cất tại nghĩa trang mặt trận.
Qua một người bạn chiến đấu về nghỉ phép có qua nhà ông bà cháu kể lại là chú cháu bị hy sinh trong trường hợp bị sập hầm và được đồng đội chôn cất ( do chú bị ốm không trực tiếp ra chiến đấu ngoài trận địa mà ở lại căn cứ nấu cơm để đưa ra trận địa) – Đây cũng chỉ là thông tin mà chú được nghe kể lại.
Qua bao nhiêu năm gia đình cháu đã tìm kiếm thông tin và phần mộ liệt sĩ Lâm và đã gửi thư liên hệ với rất nhiều BCHQS và Sở LĐTBXH các tỉnh, cuối cùng đến năm 2003 gia đình cháu cũng tìm được thông tin của chú cháu qua Cục chính sách Quân khu 5- Đà Nẵng và biết được phiên hiệu đơn vị là C17-E52-F2, tuy nhiên cũng không biết địa bàn hy sinh ở đâu.
Trong suốt quá trình đó, gia đình cháu bắt đầu dò và đăng lên mạng internet để tìm hiểu những thông tin liên quan đến Đại đội 17 (C17-E52) tuy nhiên không biết được thông tin C17 là đại đội gì?
Đến tháng 11/2011 cháu  được chú Phận (0984473038) tại Sao Đỏ Hải Dương là CCB tiểu đoàn đặc công 403 và chú Xuyên là lính thông tin liên lạc (0974834249) tại Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc là CCB tiểu đoàn 8(D8-E52) thuộc Sư đoàn 2, gọi điện cung cấp thông tin về trường hợp người của Trung đoàn 52(E52) hy sinh ngày 26/9/1972 tức là hy sinh trong chiến dịch Giải phóng Ba Tơ vì tiểu đoàn đặc công 403 và 406 có mặt cùng Trung đoàn 52 Sư đoàn 2 để đánh giải phóng Huyện lỵ Ba Tơ và khu biệt Kích Đá Bàn.
Đến tháng 4 năm  2012, gia đình cháu có vào làm việc lại với Cục chính sách Quân khu 5- Đà Nẵng một lần nữa thì biết thêm được thông tin khẳng định là liệt sỹ Lâm hy sinh tại Ba Tơ-Quảng Ngãi và bay mất thi hài, tuy nhiên phiên hiệu C17 là đại đội gì thì cũng không tra cứu được.

Tháng 7 năm 2012 cháu có vào Huyện Ba Tơ để dò tìm thêm thông tin nhưng không có thêm được bất cứ thông tin gì vì tất các  nghĩa trang tại Huyện Ba Tơ đa số là các ngôi mộ là vô danh. Qua trang web này cháu kính nhờ các chú CLB bạn quân Ngũ – Sư đoàn 2- Quân Khu 5 giải mã giúp cháu về phiên hiệu C17 và nếu các chú có bất cứ thông tin gì liên quan xin báo giúp cháu về địa chỉ:
Lê Quang Nam – Phòng 904-CT4A1-Bắc Linh Đàm-Phường Đại Kim-Quận Hoàng Mai- Thành Phố Hà Nội- ĐT 0903214925-
EMAIL qnam2001@gmail.com -
Cháu xin chân thành cảm ơn

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

ĐẠI TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN


Kính dâng hương hồn Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
 
Vẫn biết Người đi như thế rất thanh cao
Sau siêu thoát, Người đã thành Đức Phật!
Nhưng giây phút tiễn đưa mãi mãi là sự thật
Hoa rợn đường giá không phải hôm nay!

Già trẻ gái trai nước mắt nghẹn hàng cây
Chảy mãi về khu nhà số 30, Hoàng Diệu
Chuông chùa vọng một ngày Thu nặng trĩu
Hàng cây buồn lời biệt đẫm thương đau!

Từ Điện Biên đến Mũi Cà Mau
Nghe tin dữ lồng ngực cồn sóng dội!
Đại Tướng không phải là riêng của những anh Bộ Đội
Người đích thực là Đại Tướng Của Lòng Dân.

Khi sợi tóc treo vận nước nghìn cân
Như ngọn cỏ trước phong ba bão táp
Lòng quân vẫn ấm trong trường kỳ chống Pháp
Để làm nên chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu.

Hai mươi năm đánh Mỹ, tiếp đánh Tàu
Cả nhân loại gọi Người là núi cao chót vót.
Đại Tướng chỉ nhận mình là người lính Cụ Hồ chiến đấu vì tình yêu Tổ Quốc
Không muốn máu chảy đầu rơi, không muốn có bạo tàn.

Đại Tướng muốn những ngón tay cầm súng đâm lê là những ngón tay để nhân loại chơi đàn
Tiếng hát hòa bình phải vang lên chứ không phải là tiếng khóc.
Tổng kết chiến tranh là tổng kết máu xương Dân Tộc
Không vì những tượng đài. Vì hai tiếng Non Sông!

Những câu thơ hay nhất viết về Ông
Như lá cỏ giữa mênh mông thảm cỏ
Xanh đến mấy vẫn nghìn lần xanh nữa
Ngày nối ngày vô tận thơm tươi.

Người trải qua một thế kỷ bom rơi
Vẫn mát lành một nụ cười nhân hậu
Nước mắt Người đã lăn cho từng giọt máu
Mỗi lần nghe một người lính hy sinh.

Đại Đại Đoàn Quân thân thiết một gia đình
Chiến sĩ coi Người là người Cha, là Người Anh Cả
Ngọn núi lửa nhận về mình tuyết giá
Để mọi đoàn quân không một vết thương lòng.

Đại Tướng đã rèn luyện, sản sinh ra bao thế hệ Anh Hùng
Mở trang sử nghìn đời vẫn bình minh chói lọi
Người đơn giản như Nhân Dân vẫn gọi
Đại Tướng là Đại tướng Của Lòng Dân.

Người đã tạo nên bao ca khúc khải hoàn
Xẻ dọc Trường Sơn, Sài Gòn thẳng tiến
Xuyên Địa Đạo Củ Chi, mở đường Hồ Chí Minh trên biển
Pari chuyển rung, Lầu Năm Góc kinh hoàng.

Tóc người bạc phơ bởi mỗi giây phút chiến trường
Để bom đạn đỡ rung trên từng tấc đất
Người khao khát một Con Đường Hòa Bình ngắn nhất
Nhưng không chọn cách đi bằng bất cứ giá nào.

Có thể phải kéo pháo ra rồi lại kéo pháo vào
Có thể mồ hôi phải đổ nhiều thêm để làm công sự
Mỗi trận đánh bớt được một tờ báo tử
Còn vui hơn chất máu xương để đến đích trước một ngày

Người đã nâng sức mạnh đội quân xuất thân từ những dân cày
Từ chân đất áo nâu thành Đội Quân Bách Thắng!
Mỗi người lính biết nhân lên tinh thần Phù Đổng
Biết nhân lên sức mạnh của Sơn Tinh!

Nghìn năm tinh hoa trong nhịp đập tim mình
Từng hơi thở thấm sâu lời Bác dạy:
“ Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Hồn Bà Trưng, Bà Triệu từ mấy nghìn năm trước
Nhập sức mạnh về mỗi trận tiến công!

Người biết nhân tình yêu đất đai thành hùng khí Non Sông
Thành Hịch Tướng Sĩ văn, thành Bình Ngô Đại Cáo
Thành sức mạnh thần kỳ Tuyên Ngôn Độc Lập
Bác Hồ kính yêu đọc giữa Ba Đình!

Từ mã tấu, lưỡi lê, súng kíp Tân Trào
Thành trùng điệp những binh đoàn xe tăng thiết giáp
Thành súng ngắn súng dài đủ tầm cao tầm thấp
Thành tên lửa, máy bay làm chủ bầu trời.

Thành những Hạm đội tàu ngầm tàu nổi giữa biển khơi
Đối mặt với kẻ thù giữ yên biên cương hải đảo
Mỗi ngọn sóng một thành trì xương máu
Từ Trường Sơn cờ đỏ đến Trường Sa!

Gạt ra ngoài những ngôn từ son phấn tụng ca
Gạt ra ngoài những tung hô sóng dội
Dân tộc này triệu máu xương một khối
Không thể một người riêng rẽ tỏa hào quang.

Năm mươi tư dân tộc anh em đã dàn một hàng ngang
Cả Đất nước đã xếp thành hàng dọc
Đồng thanh hô vì Tự Do Độc Lập!
Ngực mỗi người đều sẵn sàng lấp lỗ châu mai.

Gần bảy mươi năm sát cánh kề vai
Trăm lớp nghìn vòng quây quần quanh Đại Tướng
Hàng trăm cánh rừng xác xơ sau bão
Sao một người tận hưởng hoa thơm?

Người đau đến chừng nào khi nhìn những nghĩa trang Đường Chín – Nam Lào, Bến Dược, Trường Sơn
Sóng trắng vỗ trùng trùng ngôi mộ
Người đau đến chừng nào khi nhớ về Thành Cổ
Chúng ta đã đi như thế đến Sài Gòn!

Chúng ta đã đi qua các nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc, Côn Lôn
Ai tính hết sự hy sinh dưới máy chém kẻ thù hay trong chuồng cọp
Hàng triệu cuộc chia ly để có ngày sum họp
Cái giá của cha gặp lại con, vợ gặp lại chồng!

Khi gởi mệnh lệnh cho cuộc Tổng tiến công:
“ Thần tốc! Thần tốc! Thần tốc hơn nữa! Táo bạo! Táo bạo! Táo bạo hơn nữa!…”
Đại Tướng hiểu những căn nhà hai mươi năm nay chưa hề khép cửa
Những người mẹ nén nước mắt vào tim đợi giây phút con về.

Mở Lịch sử nghìn năm từng lối xóm ngõ quê
Cuộc chiến tranh nào cũng là nơi đầu tiên đưa tiễn!
Thắng trận không có nghĩa là viết chữ “Muôn Năm” treo thật nhiều tấm biển
Mà phải lắng nghe Hạnh Phúc thật sự reo trong từng trái tim người.

Chỉ có Nhân Dân mới mới xứng đáng để dựng Tượng Đài
Chỉ có Nhân Dân mới viết nên những thần kỳ binh pháp
Nên khi Thượng nghị sĩ Mỹ Ed-uốt Ken-nơ-đi hỏi Đại Tướng ở Việt Nam Tướng nào giỏi nhất?
Không ngần ngại, Người trả lời tức khắc:
- Nhân Dân.

Cắt nghĩa vì sao khi Người siêu thoát Vĩnh Hằng
Cả Đất Nước nghiêng về số nhà 30, Hoàng Diệu
Một lần nữa, thêm một lần ta hiểu
Người mãi mãi là Đại Tướng Của Lòng Dân.


 Tác giả : NGUYỄN MINH KHIÊM

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

HÀNG TRIỆU NGƯỜI TỰ CÀI LẤY BĂNG TANG...


 
 
Kính viếng Vị tướng tài Võ Nguyên Giáp

Ôi! Vẫn biết phút giây này sẽ đến
Mà làm sao tim vẫn nghẹn nên lời
Vị tướng tài bao triệu người quý mến
Trái tim Người ngừng đập... Việt Nam ơi!

Tin buồn đưa giữa chiều tối đất trời
Tin buồn đưa đến muôn nơi trái đất
Tin buồn đưa ngỡ chưa là sự thật
Vị tướng tài! Nay đã mất rồi sao?

Từng hàng tre ngỡ như cũng lao xao
Từng trái tim thấy nghẹn ngào thương tiếc
Bữa cơm tối từng nhà dừng ăn tiếp
Cháu ngây thơ ngơ ngác biết chuyện gì?

Vẫn hiểu rằng vòng tử biệt sinh ly
Chẳng ai thoát, chẳng có gì níu được
Đời nhân hậu mấy ai so sánh được
Thế kỷ đời điều mong ước nhân gian!

Khu rừng xưa nghe vọng tiếng suối ngàn
Tên anh Văn vẫn vọng vang bờ cõi
Quân lệnh đầu tiên rõ từng tiếng nói
Phai Khắt, Nà Ngần chói lọi sử xưa...

Đờ Cát gục đầu, hai cánh tay đưa
Từ dưới hầm lên vẫn chưa hiểu nổi
Là tướng phương Tây không ngờ phút cuối
Thành hàng binh cúi đầu dưới sao vàng

Cầu Hiền Lương chia cắt Bắc Nam
Cuộc chiến mới với vô vàn gian khó
Lời Bác Hồ trong tim ai khắc rõ
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"

Pháo đài bay? Ta thiêu chúng ra tro!
Vua chiến trường? Ta đập bò ra hết!
Xẻ Trường Sơn! Bao đoàn quân mải miết...
Vị tướng tài thêm anh kiệt vô song.

Nhật lệnh tuyệt vời, dân tộc chờ mong
Thần tốc nữa lên! Vang trong quân ngũ!
Táo bạo nữa lên! Từng giây tranh thủ...
Giải phóng miền Nam! Một nửa cõi bờ...

Khúc khải hoàn rộn rã nhạc và thơ
Quốc kỳ tung bay ước mơ đã thoả
Vị tướng tài thấy nỗi niềm sao lạ
Trong ngày vui như thấy có Bác về...

Tóc bạc một đời binh nghiệp say mê
Tạm quên chiến trường quay về cuộc sống
Đảng giao việc gì không hề nao núng
Dù có tạm quên gươm súng, sa bàn...

Nụ cười vẫn hiền, tình vẫn chứa chan
Tuổi tác càng cao lại càng đức độ
Bên người lính xưa chia từng cảnh ngộ
Giữa những gian nan vẫn tỏ tim hồng

Ôi! Vị tướng tài rạng rỡ núi sông
Sử vàng mãi ghi chiến công lừng lẫy
Lễ tang Người... có thể không đến đấy...
Hàng triệu người... tự cài lấy băng tang...


Nhà giáo Lê Thống Nhất
ST 

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

CHÚ BÁC NÀO BIẾT CHỈ GIÙM CHÁU

Cháu là Đậu Văn Nam tìm mộ liệt sỹ



Họ và Tên: ĐẬU QUỐC KHÁNH

Năm sinh:1940

Quê Quán:Nam Mỹ,Nam Đàn,Nghệ Tĩnh

Nhập ngũ:(theo giầy báo tử 6/1962)

Đơn vị: C11.D3.E1.F2.QK5

Cấp Bậc/Chức vụ:Tiểu đội bậc truởng/Tiểu Đội Trưởng

Ngày hi sinh:7/2/1965

Truờng hợp hi sinh: Chiến Đấu

Nơi hi sinh: THĂNG BÌNH.QUẢNG NAM

Nơi an táng ban đầu:ĐỒNG DUƠNG.BÌNH ĐỊNH,THĂNG BÌNH.QUẢNG NAM



Cháu có đính kèm các giấy tờ liên quan đây, mong các chú, các bác và mọi người giúp cháu.
Cháu cảm ơn bác rất nhiều
ĐT của cháu : 0169 713 7132.









Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Quả lựu đạn Mỹ dưới lưng bạn tôi nằm

QĐND - Tôi nguyên là chiến sĩ đại đội 18 thông tin của Trung đoàn 141, đoàn H. Sau khi đánh Nam Lào xong, hè 1971,  đơn vị tôi vào giải phóng Pha Lan, Đồng Hến, tiếp tục hành quân hướng Tây Nguyên với tinh thần: “Trường Sơn chuyển mình, Pô kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng Tây Nguyên”. Chúng tôi vào đánh Đắc Tô-Tân Cảnh như xem phim: Pháo rót vào, tăng tiến lên, bộ binh theo sau giải phóng. Anh bạn tôi là Nguyễn Xuân Hương, ở đại đội trinh sát tâm sự: Thế hệ chúng mình sẽ tiếp quản thành phố Sài Gòn. Nhưng...

Biệt khu 24 - Những ngày máu lửa
41 năm trước, chúng tôi hăng hái lên đường. Gia đình Hương có hai trai, anh trai đang ở mặt trận. Hương được miễn nghĩa vụ, lại đang công tác ở nhà máy xay. Thế mà, nghe tin ở quê tuyển quân, Hương vội về viết đơn tình nguyện lên đường. Hương ngoan, hiền lành, chịu khó, nên trung đoàn đưa Hương làm công vụ cho đồng chí trung đoàn phó tên Đăng. Sau đó, Hương được cử đi học y tá và làm y tá cho đại đội 21 trinh sát. Công việc nào Hương cũng làm tốt, được đồng đội tin yêu.

Thăm người đồng đội chưa biết tên ( chụp tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Bình Thuận - ảnh:NGUYỄN VĂN MINH)


Ta quyết định đánh vào thị xã Kon Tum dịp 19-5-1972 để lập thành tích dâng lên mừng sinh nhật Bác Hồ. Lương thực quá khó khăn, chúng tôi xuất trận với súng ống và cả… bánh sắn bên mình!

Tôi được lệnh đeo máy dẫn đường vào cửa mở. Hương cũng đánh trận thị xã Kon Tum. Mấy ngày khi ngớt tiếng súng, tôi gặp Hương ngồi giữa mênh mông của phi trường. Hương chia sẻ cho tôi ít đường, sữa, lương khô. Còn cái bánh sắn, Hương cũng chia đôi bảo tôi ăn. Thấy tôi ngần ngại, Hương nói: "Cậu ăn với mình đi, kẻo rồi đánh nhau nhỡ có chết không phải làm... ma đói!".

Tôi và Hương đều cùng được lệnh chiến đấu giữ biệt khu 24 của sân bay. Cả thị xã Kon Tum ầm ào tiếng gầm rú của các loại pháo, đạn, xe tăng ù ù chà đi chà lại đến nhức óc. Rồi có lẽ, ruồi nhiều thế nào thì trực thăng của địch lúc đó gầm thét giữa bầu trời nhiều như thế. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó “Quyết tử thủ Kon Tum” mà!

10 ngày sau, 5-6-1972, khoảng 8 giờ tối, tôi nhìn sang lô cốt của Hương (vì từ chỗ tôi sang chỗ Hương khoảng 10-12m), Hương đang chững chạc nhả đạn về phía quân thù. Nhưng ôi! Một ánh chớp chói lòa, một âm thanh chói tai! Hương hy sinh rồi! Tôi và đại đội phó Quang nhảy lên khỏi hầm, một ánh chớp nữa lóe lên, tôi “bị” rồi và một suy nghĩ thoáng nhanh: “Vĩnh biệt mẹ!”. Nhưng may mà tôi không hy sinh, được cấp cứu, điều trị và ra Bắc.

Chiến tranh kết thúc, làng tôi có 3 anh em là  tôi, Biềng, Hương cùng lên đường chiến đấu từ cuối năm 1969 thì hai người hy sinh. Tháng 4-1970, Biềng được điều đi trước vào đơn vị xăng dầu đường dây 559. Chúng tôi bảo nhau: Được vào đơn vị đó, chắc chắn cuộc chiến kết thúc, “cái gáo” chắc chắn đem về cho “u” rồi…

Thế mà, một bữa, sau khi đánh Nam Lào xong, tôi và Hương lếch thếch trên vạt đồi đi lấy gạo. Thấy mấy nấm mồ ven đường, đất lấp gần như còn mới, chúng tôi nói với nhau:
- Vào xem ai lại hy sinh ở đây!
 Vào đến ngôi mộ đầu tiên, chúng tôi không tin vào mắt mình: “Hạ sĩ Trần Đức Biềng. Quê quán: Ninh Sơn, Gia Khánh, Ninh Bình...”. Hai chúng tôi đột ngột quá! Đứa nọ nhìn nhanh sang đứa kia, từ từ ngả mũ, nghẹn ngào…
Hè 2007, vợ chồng tôi trong một chuyến du lịch, được thăm viếng nghĩa trang Trường Sơn, tôi lại bàng hoàng thấy mộ Biềng, Biềng đã được quy tập về đây. Việc của Biềng thế là tạm ổn, còn Hương?

Tôi về tìm lại bạn tôi
Hương và tôi cùng cảnh ngộ, cùng sở thích nên hình ảnh bạn vẫn theo tôi suốt cuộc đời. Vợ chồng tôi bảo nhau, cố gắng 27-7 hằng năm xuống gia đình thắp nhang cho Hương. Một trong những nỗi trăn trở day dứt trong tôi là chiến tranh trôi qua đã nhiều năm, giờ vẫn chưa biết Hương nằm lại nơi nào. Cũng một phần bởi gia đình Hương nghèo lắm! Bố mẹ mất rồi, anh trai mất rồi, chị gái bị mù từ nhỏ, chị dâu và các cháu còn vất vả với cuộc sống mưu sinh.

Tôi bàn với vợ, phải gặp gia đình Hương, lo cho được chuyện này. Khi tôi đến gặp, gia đình rất mừng, đặc biệt chị dâu của Hương và cháu gái Huệ. Nhưng quyết tâm là thế, trước mắt còn bao nan giải. Một là, chỉ biết Hương hy sinh ở Kon Tum, khu vực biệt khu 24, giờ chẳng rõ nơi nào. Hai là, tổ chức chuyến đi Kon Tum sẽ tốn kém không phải một triệu, hai triệu mà phải vài chục triệu, một con số không nhỏ với gia đình Hương! Song, tôi đề nghị gia đình cứ mạnh dạn lên, có quyết tâm, có sự đoàn kết, mọi khó khăn sẽ qua. Tôi quyết tâm cùng gia đình bạn đi tìm hài cốt, vì tôi đã từng trực tiếp chứng kiến lúc Hương hy sinh. May mà khi tôi xin phép Ban giám hiệu trường tôi công tác, các anh đều ủng hộ ngay. Khó khăn thứ hai, chúng tôi tìm đến một nhà ngoại cảm chuyên tìm hài cốt liệt sĩ, nhờ hướng dẫn, giúp đỡ. Bạn tôi hy sinh ở thành phố Kon Tum là chính xác rồi nhưng phường, phố nào thì tôi đâu biết? Thông tin thu được từ nhà ngoại cảm cho biết, nơi yên nghỉ của bạn tôi hiện ở tổ 3, phường Thắng Lợi, Thành phố Kon Tum, khá khớp với hoàn cảnh bạn tôi hy sinh, càng củng cố quyết tâm lên đường của chúng tôi.

Chúng tôi quyết định lên đường vào Kon Tum ngày 6-5-2011. Tôi về viết giấy xin phép, xuống trường nơi tôi dạy. Thời gian này đang cuối năm, công việc ở trường cực kỳ bận rộn. Không ngờ thầy Trần Quang Vinh-Hiệu trưởng, không chỉ đồng ý ngay mà còn nắm tay tôi: “Đi tìm đồng đội, liệt sĩ là việc thiêng liêng, là trách nhiệm của tất cả chúng ta, anh cứ đi, việc ở nhà có chúng tôi!”. Tôi gặp anh chị em trong tổ, nói anh em thông cảm và bàn giao chuyên môn. Thật tuyệt, từ chị Loan tổ phó đến tất cả các anh em đều rất nhiệt tình ủng hộ và động viên tôi lên đường.

Đoàn đi gồm 9 người từ Ninh Bình, nhằm hướng Kon Tum lên đường. Rất nhiều bà con, kể cả không phải họ hàng đưa tiễn chúng tôi, nhiều người khóc, cả Yến (vợ tôi) nước mắt cũng dàn dụa. Thế đấy, một dân tộc, cuộc chiến tranh lùi qua gần nửa thế kỷ, vẫn những cuộc tiễn đưa đầy lệ. Giây phút ngắn ngủi ấy tôi chạnh nhớ mấy câu thơ trong bài “Đại đội 18, gia đình tôi” mà tôi sáng tác tặng đại đội 18 thông tin của mình, có đoạn: Bàn tay vẫy những bàn tay/Gạt đi dòng lệ, ngày mai trở về/Ra đi, nặng một lời thề/Diệt xong giặc Mỹ mới về quê hương...

Xe sắp đến ranh giới Ninh Bình-Thanh Hóa, tôi thầm nói với Hương:
- Hương à! Nơi đây là điểm nghỉ chân từ quê vào của những ngày kéo xe cải tiến đi lấy củi. Cơm đùm, cơm nắm vào đây phải không Hương. Đây cách nhà trên hai chục cây và còn phải vào sâu, trèo đèo lội suối trên dưới chục cây nữa, may mà giao thông ngày đó, xe cộ còn ít, nhiều khi vừa dắt xe, vừa đi, vừa ngủ gật. Bây giờ mà thế thì toi!”.

Xe vào miền Trung, qua cầu Bến Thủy. Tôi lại thầm nhớ tháng 7-1970, chúng tôi ngồi trên thuyền để tiến vào Nam, trên dòng sông này vang lên những câu hò, tiếng hát đầy lạc quan. Tiếng hò xứ Nghệ sao da diết đến vậy? Cầu Bến Thủy giờ quá hiện đại và nghe nói đang tiến hành xây dựng cây cầu Bến Thủy 2 nữa. Qua Đèo Ngang, không còn hoang tàn nữa mà nay là một hầm xuyên đèo khá hiện đại. Thật quá nhiều đổi thay, xương máu chúng tôi đổ xuống đã không uổng phí!

Cuối cùng, chúng tôi cũng tới UBND phường Thắng Lợi. Đồng chí Lê Đức Hòa-Phó chủ tịch phụ trách văn xã trực tiếp ra đón chúng tôi, dù hôm nay là ngày nghỉ chủ nhật. Anh nói: “Không sao, chúng ta đi tìm đồng đội mà!”. Nhìn vùng đất cao nguyên bạt ngàn mây gió giờ san sát nhà cửa, tôi chẳng thể hình dung nơi Hương nằm ở đâu. Hỏi hoài mà chưa ai biết biệt khu 24. Bà con thấy lạ vây quanh rất đông. Bỗng dưng tôi thấy xúc động lạ kỳ, thương bạn, tôi bật khóc đến khản tiếng. Lúc này, may mắn sao, tôi gặp anh Tuân đồng hương, quê Yên Mô, nhà anh chếch phía trước nhà văn hóa. Anh chỉ tay phía trước:
- Tôi về đây năm 1978, khoảng kia khi tôi về nó là phi trường, biệt khu 24 là khoảng nhà văn hóa.

Chúng tôi tới khu nhà văn hóa còn đơn sơ, hè có thảm cỏ khá rộng. Hình ảnh của 39 năm về trước, trận tấn công vào thị xã Kon Tum năm 1972 như những thước phim quay chậm hiện về.

Ngày hôm sau, thật diệu kỳ, chúng tôi đã tìm được nơi Hương nằm, khớp với thông tin thu thập từ trước và thực địa nơi chúng tôi từng chiến đấu. Bác Lê Văn Binh, nhà ngay sau gốc cây to, cho chúng tôi mượn bàn và nhiều thứ cần thiết để đặt lễ, làm thủ tục tìm hài cốt.

Chúng tôi bắt đầu đào. Một thanh niên từ nãy cứ theo dõi mọi hoạt động của đoàn, tự nguyện cầm xẻng, cuốc làm rất nhiệt tình, say sưa, mồ hôi vã ra, giúp chúng tôi từ đầu đến cuối. Sau tôi mới biết anh là Nguyễn Huy Dần, giáo viên Trường THCS Thắng Lợi. Càng lúc, bà con kéo đến càng đông. Có hai người đàn ông khoảng 40-50 tuổi nói nhỏ với nhau:
-  Họ lấy hài cốt người đã hy sinh, mình xuống giúp họ một lúc.
Nói rồi, họ tìm xẻng, tìm cuốc, cùng đào rất say sưa. Bác Lê Văn Binh, chủ nhà cạnh gốc cây, đào cuốc miệt mài, mồ hôi đầm đìa trên áo. Công việc ở ngay góc ngã ba đường phố, nghe nói tìm hài cốt liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu hy sinh trên quê hương nên bà con địa phương đứng vây chặt vòng trong, vòng ngoài, nhiều người nước mắt rưng rưng.

Cuối cùng, chúng tôi đã tìm được Hương. Đúng là Hương qua xác nhận của tôi, người trực tiếp chứng kiến lúc Hương ngã xuống. Tôi đề nghị bồi dưỡng cô bác đã nhiệt tình giúp đỡ, nhưng bà con đều khước từ. Chúng tôi làm các thủ tục với  UBND phường rồi lên đường đưa Hương về quê mẹ. 

 Khi tất cả mọi việc của nơi hốt cốt hoàn thành, xe lăn bánh về phía Quảng Nam, khoảng 20 giờ, xe dừng lại ăn cơm và nghỉ ngơi. Ngồi uống nước, cậu Thiện cùng đoàn thổ lộ với tôi: "Lúc lấy hài cốt, em nhặt được một con dao quắm và một quả lựu đạn anh à. Em đang để trên xe".

Tôi giật mình! Thì ra, đó là con dao quắm và quả lựu đạn US của Mỹ lâu ngày không còn mỏ vịt. Tôi thủ thỉ bên Hương:
- Hương à! Kẻ thù của ta nguy hiểm là thế! Chúng biết chính sách thương binh, liệt sĩ của ta mà! Một đồng chí hy sinh, nếu phải tiếp tục hy sinh cả tiểu đoàn để lấy xác đồng đội, ta vẫn phải làm. Nên khi chôn Hương, chúng đã cài lựu đạn, đúng không Hương! Cũng may mà thời gian đã 39 năm, lựu đạn mất tác dụng rồi Hương nhỉ!

Sau khi chúng tôi về quê, phường, đội xuống thu quả lựu đạn kiểm nghiệm sự an toàn, nó đã không còn khả năng gây nổ, họ trả lại gia đình làm kỷ vật. Nhưng gia đình Hương không muốn nhìn thấy thêm nỗi đau thương, chú em Hương đã mang vứt xuống dòng sông, dòng sông quê hương từng nuôi lớn chúng tôi... 

(Giáo viên Trường THPT Yên Khánh B - Ninh Bình)

Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

PHIÊN HIỆU SƯ 2



I. SƯ ĐOÀN 2
Thành lập 20/10/1965 tại làng An Lâm, xã Phước Hà, huyện Tiên Phước , tỉnh Quảng Nam
Sư đoàn trưởng huyền thoại : Nguyễn Chơn – Anh hùng LL vũ trang nhân dân Việt Nam

II. CÁC TRUNG ĐOÀN.
1. Trung đoàn Ba Gia ( E1) vốn là đơn vị truyền thống của E 108 thành lập từ năm 1962. Sau chiến thắng Ba Gia E1 mang tên trung đoàn Ba Gia
Gồm các tiểu đoàn  : D40, D60, D90, D trợ chiến và các đại đội trực thuộc.
Sau đổi thành D1, D2, D3

2. Trung đoàn Ba Gia ( E21)  thành lập năm 1965 ở Hà Bắc .Tháng 7/1965 vào chiến trường nhập vào sư đoàn 2. Tháng 6/1971 nhập về sư đoàn 3 Sao Vàng. Tháng 6/1973 sau giải thể  về nhập lữ đoàn 52
Gồm các tiểu đoàn  : D22, D33, D44.

3. Trung đoàn 141 ( E141) vốn là đơn vị của sư đoàn 312 vào chiến trường Quảng Đà. Đến 7/1970 nhập Sư 2 . Từ tháng 6/1973 nhập vào Sư 3.
Gồm các tiểu đoàn  : D3, D4, D5
4. Trung đoàn 31 ( E31) vốn là E 64  sư đoàn 320 vào chiến trường  10/1966 được bổ xung cho  Sư 2 . Năm 1971 E31 được tăng cường cho chiến trường B3 Tây Nguyên trong chiens dịch Đắc Siêng.  Năm 1972 đầu quân cho sư 711. Đến tháng 6/1973 sau khi F711 giải thể, E31 trở về sư 2.
Gồm các tiểu đoàn  : D7, D8, D9

5. Trung đoàn 52 ( E52) vốn là đơn vị của sư đoàn 320 vào chiến trường Tây Nguyên tháng 1/ 1972. Cuối năm 1972 nhập Sư 2 . Từ tháng 6/1973 E52 và D12 pháo binh tách khỏi sư 2 thành hình thành  lữ đoàn 52

6. Trung đoàn 36 ( E36) - Nguyên gốc E36 thuộc sư đoàn 308 tăng cường cho quân khu V trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Năm 1969 tạm giải thể và tập trung lại vào năm 1974 tham gia chiến dịch Nông Sơn- Tiên Phước. Đến tháng 10 năm 1974 đầu quân sư 2

7. Trung đoàn 38 ( E38) - Nguyên gốc E90 thuộc sư đoàn 324 tập kết ra Bắc theo hiệp định Giơ ne vơ . Năm 1961 khi  quay lại chiến trường rút gọn lại thành D trong đội hình lữ đoàn 324
Năm 1966 làm nhiệm vụ quốc tế ở Xavanakhets , sau chuyển về đường 9 đánh trận Gio An. Năm 1968 chốt giữ TP Huế. Năm 1972 đứng chân trong đội hình sư 711 cùng E 31 đánh Hiệp Đức , Cấm Dơi..Quế Sơn. Tháng 6 năm 1973 sau khi F711 giải tán trở về sư 2.

8. Trung đoàn pháo binh  368 ( E368) thành lập 22/12/1974 trên cơ sở tập hợp các tiểu đoàn pháo binh, cao xạ, súng máy của sư 2 và lực lượng tăng cường của quân khu V.

III. CÁC TIỂU ĐOÀN
1. Tiểu đoàn 70 bộ binh ( D70 ) nguyên là CBCS của tỉnh đội Quảng Nam sau tập kết trở lại chiến trường. D70 nằm trong đội hình sư 2 từ ngày đầu thành lập sau dó chuyển về tỉnh đội Quảng Nam
2. Tiểu đoàn 10 đặc công ( D10 ) thành lập tháng 6/1967
3. Tiểu đoàn 12 pháo mặt đất( D12 )
4. Tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm  súng phòng không  ( D13) Nguyên gốc D28  thuộc bộ tư lệnh 559 . Một bộ phận của E 368 sau này
5. Tiểu đoàn 14 súng phòng không  ( D14) một bộ phận của E 368 sau này

6. Tiểu đoàn công binh  (D15)

7. Tiểu đoàn pháo 85 mm  được QKV bổ xung tháng 1/1974 . Một bộ phận của E 368 sau này

8. Tiểu đoàn vận tải ( D19)

IV. ĐẠI ĐỘI 21 – Đại đội trinh sát trực thuộc F2

Ghi chú: Sưu tầm và nhớ lại nên còn gì chưa hoàn tất xin các đồng chí góp ý bổ xung

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

QUÊ HƯƠNG MANG NHIỀU KỶ NIỆM

Một dải đất miền trung mang đầy nỗi nhớ
Quê hương ơi! nôn nao da diết trong đời
Một kiếp nghèo đọng mãi ở trong tôi
Cứ ôm ấp,cho hôm nay quê hương trỗi dậy
Yêu quê mẹ cồn cát vàng hạ cháy
Nơi thôn nghèo thuở ấy chẳng trọn đêm
Gót chân tuổi xuân bắt đất đá phải mềm
Đời lam lũ làm sao ta quên nỗi
Cuộc chiến tranh
Hoang tàn
Chết chóc
Đau thương nhức nhối
Găm chúi vào lòng uất hận cứ triền miên

Ngày mẹ tiễn con đi túi mẹ chẳng còn tiền
Quà chiến sĩ chưa đầy mo cơm nếp
Nhưng mẹ đã tặng con đời trai và khí tiết
Đất Lam hồng gởi gắm chiến trường xa
Mẹ gieo hạt, con thành cây, cây sẽ nở hoa
Hoa hòa quyện cùng với dòng máu nóng
Mẹ ơi!
Hôm qua
Hôm nay
Vì sao...?
Trả lời với quê hương rằng con đã lớn
Theo tháng năm trôi
Mẹ đã rời xa không thấy mẹ nữa rồi
Con khóc...
Tác giả : LÂM GIANG

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

BÁC NÀO BIẾT CHỈ GIÙM CHÁU

Thưa các chú, các bác  Cự chiến sĩ Sư đoàn 2

Hiện nay bố chồng cháu đang vật lộn với căn bệnh hiểm nghèo "Ung thư giai đoạn cuối" Tâm niệm của bố cháu là biết chút gì thông tin về người em đã hy sinh năm 1965.

Liệt sỹ: NGUYỄN NGỤ
Quê quán: ĐỨC PHÚC, ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH
Nhập ngũ: THÁNG 2/1960   NGÀY ĐI B: 6/1963
Đơn vị khi hy sinh: D145, EI, F2, QK5  ( D145?)
Đơn vị theo ký hiệu:   KN
Chức vụ khi hy sinh: CHIẾN SỸ
Hy sinh ngày:   07/02/1965
Trong trường hợp: CHIẾN ĐẤU
Nơi an táng: VIỆT AN - HUYỆN THĂNG BÌNH - TỈNH QUẢNG NAM
( bản trích lục  ngày 7/8/2012)
Cháu hồi hộp chờ thông tin của các chú, các bác
Cảm ơn
các chú, các bác chú rất nhiều.

Cháu: Lê Thị vân
Đ/C:628 Trương Công Định, Phường Nguyễn An Ninh, TP. Vũng Tàu
ĐT: 0988873750

Kỷ niệm Nam Lào

Chuyện xảy ra vào mùa mưa năm 1987-1988 trong quá trình phục lót đón đánh bọn diệt chủng Pôn Pốt Iêng-xa-ri trên tuyến biên giới đông bắc Cam-pu-chia và Nam Lào.

Đơn vị chúng tôi (Trung đoàn 1, Sư đoàn 2) mở màn nổ súng nhưng lại để địch lọt qua. Để tìm hiểu rõ căn nguyên, chúng tôi phải ra trận địa xác minh từ điểm đứng, hướng bắn của chiến sĩ đến vị trí rơi của vỏ đạn và mất gần hai tiếng đồng hồ mới tìm ra “thủ phạm” nằm cách khu vực chiến sĩ cảnh giới của đại đội khoảng một mét.
Lý do vì quá bất ngờ khi địch vượt qua, một chiến sĩ buộc phải nổ súng để báo động nhưng đạn bị thối. Trong lúc lúng túng đối phó thì anh chàng bị hai quả đạn B40 của địch phủ đầu, khói bụi mù mịt nên không biết địch chạy về hướng nào.
Chiến sĩ này mới bổ sung vào đơn vị rồi đi chiến đấu ngay nên kinh nghiệm chưa có. Đại đội gọi đồng chí chiến sĩ nổ súng không thành, lên gặp tôi.

Lễ cầu may chia tay với cán bộ và nhân dân tỉnh Chăm-pa-sắc, Nam Lào khi hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn 1987-1988 (tác giả là người đeo kính).

Trước mặt tôi là một thanh niên trẻ măng, khôi ngô, được học hành bài bản trên quê hương Quảng Nam “trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ” nhưng chưa hề có kinh nghiệm trận mạc. Lòng tôi thầm trách cán bộ thuộc quyền sao lại sử dụng một chiến sĩ “mới toanh” vào vị trí phục lót tại nơi trọng điểm của đơn vị. Vừa dặn mình và cũng để củng cố lòng tin cho chiến sĩ, tôi ân cần: “Về đơn vị ráng học tập cho thành thạo cách dùng súng và làm quen với chiến đấu để lần sau lập công nghe!”
- “Dạ”. Nhìn bóng chiến sĩ hòa vào bóng núi, tôi lại nghĩ suy về câu của đồng chí Tư lệnh mặt trận: “Không diệt được địch là tội lớn đó…”. Đầu tôi như có lửa, không phải chỉ có tội với Đảng, quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam, Cam-pu-chia mà còn có tội với chiến sĩ của mình, nếu như hôm đó bọn Pôn Pốt không thần hồn nát thần tính thì hai quả B40 chắc gì đã bỏ qua mạng sống kia.

Rời bản Ka Điêng, huyện Mường Mun, tỉnh Chăm-pa-sắc, Nam Lào tôi cứ đau đáu về yêu cầu nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Đội trinh sát Trung đoàn 1 trong thời gian tới, cần phải nghiên cứu kỹ phương thức và thủ đoạn phục lót, tranh thủ huấn luyện bộ đội theo phương án, điều chỉnh lực lượng cho phù hợp và linh hoạt. Đối với chiến sĩ mới bổ sung phải dành nhiều thời gian và phân công cán bộ phân đội trực tiếp hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ từng động tác kỹ, chiến thuật và nếp sống chiến đấu. Chiến dịch còn dài, mùa mưa đã bắt đầu, phải hết sức cảnh giác và giữ gìn sức khỏe cho bộ đội để duy trì sức chiến đấu bền bỉ dẻo dai của một đơn vị “tinh nhuệ”, nếu để địch lọt lưới thì thật hổ danh “lính trinh sát Ba Gia”.

 
Chia tay buôn Hương, từ Mường Mun về sở chỉ huy sư đoàn tại bản Beo, đoạn đường gần 60 cây số, tôi và đoàn cán bộ lặng lẽ dồn bước trên con đường quân sự làm gấp sau cơn mưa chiều trời mát dịu mà lòng mãi nghĩ về đợt hoạt động của Trung đoàn bộ binh 1. Khi cách sở chỉ huy sư đoàn khoảng 500m, bộ phận hành chính báo lên xin cho nuôi quân về trước chuẩn bị cơm chiều. “Đồng ý”, tôi vừa nói xong thì đồng chí nuôi quân vừa đi tới phía sau hô lớn: “Thủ trưởng, dưới chân có mìn…”. Theo quán tính của bước chân quân hành tôi trụ mũi bàn chân và nâng gót đứng tại chỗ. Sau tôi là đồng chí Do, Phó chủ nhiệm Công binh Sư đoàn vượt lên phát lệnh mọi người tản ra hai bên đường cảnh giới, đồng chí Phương, Chủ nhiệm chính trị lên động viên bộ đội bình tĩnh, sẵn sàng chiến đấu.

Đồng chí Phạm Chân Lý, Phó tham mưu trưởng kiêm Trưởng ban Tác chiến triển khai lực lượng dò gỡ. Sau 30 phút, lực lượng công binh dò tìm và đưa lên 2 quả mìn 65-2A (1 quả đặt trên, 1 quả đặt dưới) và 4 quả B40 (3 quả đặt theo chiều thẳng đứng, 1 quả nằm ngang) nhưng rất may là 2 quả mìn 65-2A kíp lắp ngược… Tôi nhận định: Đây là bẫy của bọn Pôn Pốt cài để đánh xe cơ giới của ta thường vận chuyển bộ đội và hàng hóa từ Mường Mun vào sở chỉ huy sư đoàn. Khi chúng tôi đi trời chưa mưa nên không phát hiện. Lúc về, sau cơn mưa, nước chảy cuốn đi lớp đất ngụy trang phía trên dễ nhận thấy màu xanh của vỏ mìn 65-2A. Mặt khác, đây là đoạn đường do lực lượng công binh của sư đoàn chốt giữ và tuần tra bảo vệ thường xuyên nên bọn Pôn Pốt đặt vội vàng và đã lắp ngược kíp. Nếu không thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi và đoàn công tác.

Tôi cảm kích ôm chặt đồng chí nuôi quân, mắt nhìn sâu vào mắt thấy ấm áp tình yêu thương đồng đội, từ hai nửa trái tim rung lên cùng nhịp đập.

Nguồn : Thiếu tướng Trần Minh Hùng

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

AI BIẾT GIÚP CHÁU

Kính gửi các Chú, Bác cựu CBCS sư 2
Cháu có người chú hy sinh đã lâu. Gia đình cháu không biết tin gì ngoài những thông tin ngắn ngủi. Cháu xin gửi tin này mong rằng các Chú, Bác cựu CBCS sư2 ai biết thông tin gì cho cháu biết cháu vô cùng biết ơn

Liệt sỹ:     Nguyễn Văn Thành
Sinh:         1949
Quê quán:  Lương Phong- Hệp Hòa-Bắc Giang (
Hy sinh ngày: 11/08/1971
Tại mặt trận phía nam (Quế sơn - Quảng Đà-theo thông tin từ đồng đội của ông ở làng bên)

Hộp thư của cháu :

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

NHÂN NGÀY 30 THÁNG 4

 
Bây giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã được giải mã gần hết. Những tài liệu này đã giúp chúng ta tìm hiểu tại sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có tinh thần chiến đấu rất cao, đã từng giữ vững miền Nam trong suốt 20 năm, lại có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày?


Câu trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho quê hương không thể không biết đến.
 
QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM
Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức (từ 9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina đã cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam.


Tài liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa xuân và mùa hè 1972, Tổng thống Nixon đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Ông nói với Cố vấn An ninh Kissinger:
“Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời:
“Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt Nam (if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
Lúc đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định Paris có những điều khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, Tổng Thống Thiệu cũng đã chấp nhận ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”
Nhưng để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp Định Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.
 
TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975
Đầu năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng 1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và 381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang.


Lục quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, liên đoàn 81 biệt cách dù, 15 liên đoàn biệt động quân (tương đương với 5 sư đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly).


Không quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm 20 phi đoàn khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510 máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).


Hải quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:
(1) Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),
(2) Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm).
(3) các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái.

Làm thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Trung Quốc và CSVN trong một thời gian khoảng hai năm và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến cuộc chiến nữa?
 
ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Để thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.


Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng Tổng Tống Thiệu là người độc đoán và thích hành động theo cảm tính nên chẳng nghe ai. Trong cuốn Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông:
“Tôi luôn là người quyết định. Luôn luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một quyết định, nhưng rồi làm quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một nhà chính trị có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo đảm sẽ làm theo ý họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng khi Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Đây là những người không có tầm nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.


Quả thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam và tìm ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ lãnh thổ lại.
 
1.- Cắt bớt viện trợ
Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973:

1972 – 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973 – 1974: 1 tỷ 026 triệu và


1974 – 1975 xuống còn: 700 triệu.
 
2.- Đánh lừa bằng tài liệu
Trong cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo do Tướng John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên.

Mặc dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm thấy bản văn này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính của bản báo cáo đó như sau:

- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt;
- Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt;


- Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ song Cửu Long.
 
Ông Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy.”
Từ ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa bao giờ thấy các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV hay DAO được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu hay bất cứ cơ quan nào của VNCH. Chúng ta chỉ biết được một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ giải mã. Thế thì tại sao tài liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có âm mưu gì.


Ông Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói: “Từng chiến lược cho từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”.
Thật ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được đề nghị. Nếu Tổng Thống Thiệu nghĩ đó là một đề nghị về kế hoạch hành động là hoàn toàn sai lầm.
 
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh lừa Tổng Thống Thiệu.

Trong bài thuyết trình "Get Me Ten Years': Australia's Ted Serong in Vietnam, 1962-1975", bà Tiến sĩ Anne Blair, một giảng viên về Quan Hệ Quốc Tế và Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of Technology ở Úc, đã cho biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có tiếp xúc với Tướng Ted Serong và yêu cầu ông ta đưa ra một kế hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân Lực VNCH đã được triển khai ở phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số và 1/3 tài nguyên của miền Nam.
Chúng ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm lẫn tướng Đặng Văn Quang đều là nhân viên CIA được cài vào để theo dõi và kiểm soát các hành động của Tổng Thống Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm gặp tướng Ted Seron là theo lệnh của CIA.

Ông Hưng cho biết Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập một phòng tuyến kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút quân!
Tướng Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?

Tướng Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn Luyện Quân Đội Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm về chiến trường Đông Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân đội Miến Điện. Do kinh nghiệm của ông về chống nổi dậy (counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông vừa chỉ huy một toán nhỏ người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV dưới thời Tướng Harkins. Theo bà Blair, Tướng Harkins không tin vào chống nổi dậy và ông không muốn một cố vấn. Tướng Ted Serong đã đưa nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không được áp ứng.

Như vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông không phải là một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài bẩy Tổng Thống Thiệu.
 
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ
Năm 1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần, rút quân về phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin vì hai lý do:

(1) Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được vì địa hình không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.

(2) Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết với Hà Nội và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn định lại biên giới giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái phối trí” mới có thể thực hiện được.
 
Vì thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu chưa thương thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại. Nhưng ông Thiệu đã làm điều điên rồ đó.

Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo cho Tổng Thống Thiệu thời hạn chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc nội trong tháng hai. Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha Trang, rằng ngài nên "chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di cư!
Ngày 10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại được. Nhân vụ này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao Văn Viên:
- Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng Viên trả lời:
- Không còn.
Tổng Thống Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
- Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng Phú trả lời:
- Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện không quân yểm trợ tối đa và tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
Tổng Thống Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy phải rút khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển tiếp tế thuận lợi hơn.
Tổng Thống Thiệu hỏi:
- Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng Viên trả lời:
- Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt.
Tổng Thống Thiệu lại hỏi:
- Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng Viên nói:


- Đường 14 càng không được.
Sau khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy dài (khoảng 228 km) và xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.

Tổng Thống Thiệu chỉ thị không thông báo cho các tiểu khu và chi khu biết, cứ để họ tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết. Tổng Thống nói địa phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả chúng về với Cao nguyên. Như vậy các tỉnh trưởng, quận trưởng, địa phương quân, cảnh sát, phòng vệ dân sự và các nhân viên hành chánh đều bị bỏ lại.
Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn Tướng để chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo cho Mỹ biết.

ĐOÀN QUÂN TAN RÃ

Diễn biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại những nét chính.

- Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, đó là các Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn biệt phái từ Sài Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36 tiểu đoàn địa phương quân.
- Xe tăng và thiết giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175 mm.



- Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).

- Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột.
- Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku. Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
- Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết đoàn 19, Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua khỏi Phú Bổn, đèo Tuna và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu. Sáng 16.3.1975 đoàn quân mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn.
- Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng 93 km và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
- Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và dân tiến về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo một đoàn quân xa khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng gần 2000 chiếc. Liên Đoàn 4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng và thường đạp lên nhau để tiến tới trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh lỵ Phú Bổn vì không tiến được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn khoảng 4 km.
Vì cuộc rút quân quá bất ngờ nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư Lệnh Tây Nguyên của Cộng quân mới biết được và ra lệnh cho tiểu đoàn 9 thuộc trung đoàn 64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận Mẫn, đem quân chận ở đèo Tuna và pháo kích vào đoàn quân và dân đang dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi từ trường tiểu học Phú Bổn, đã chỉ huy ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, đang chỉ huy ở dưới đất, phải phá cho được cái chốt này. Có không quân bay tới yểm trợ.


Liên đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu đã cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng tôi biết Biệt Động Quân, thiết giáp và không quân đã không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng nào bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán loạn, nên đoàn quân tan rã. Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân phải lội bộ đi vòng dưới chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng đã bị bắt khi đến gần Củng Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng và về được đến Phú Yên.

Liên Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công dữ dội, cũng đã bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19 và Liên Đoàn 6 BĐQ về tới được Tuy Hòa.
Một cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị Cộng quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân chúng di tản theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do hỏa lực của cả hai bên, do đuối sức hay đói không ước tính được. Đa số phải trở lại Pleiku.
ooOoo


Kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam cả về quân sự, kinh tế lẫn chính trị và đưa người của họ lên nắm chính quyền. Trong tình trạng như vậy, miền Nam khó quyết định được số phận của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm của ông gây ra.

Chiều 29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc trực thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.

Nguồn : Lữ Giang