Bây
giờ
các
tài
liệu
bí
mật
của
Mỹ
liên
quan
đến
cuộc
chiến
Việt
Nam
đã
được
giải
mã
gần
hết.
Những
tài
liệu
này
đã
giúp
chúng
ta
tìm
hiểu
tại
sao
miền
Nam
Việt
Nam
có
một
quân
lực
khá
hùng
mạnh
và
thiện
chiến,
có
tinh
thần
chiến
đấu
rất
cao,
đã
từng
giữ
vững
miền
Nam
trong
suốt
20
năm,
lại
có
thể
bị
sụp
đổ
chỉ
trong
40
ngày?
Câu
trả
lời
sẽ
là
một
bài
học
lịch
sử
đắt
giá
mà
mọi
người
Việt
khi
chiến
đấu
cho
quê
hương
không
thể
không
biết
đến.
QUYẾT
ĐỊNH
BỎ
MIỀN
NAM
Vào
tháng
8
năm
2004,
nhân
kỷ
niệm
30
năm
ngày
Tổng
Thống
Nixon
từ
chức
(từ
9.8.1974
đến
9.8.2004),
Miller
Center
of
Public
Affairs thuộc
Đại
Học
Virgina
đã
cho
công
bố
cuốn
băng
ghi
âm
các
cuộc
nói
chuyện
giữa
Nixon
và
Kissinger
về
cuộc
bầu
cử
Tổng
Thống
Mỹ
cuối
năm
1972,
trong
đó
có
đề
cập
đến
số
phận
của
miền
Nam
Việt
Nam.
Tài
liệu
cho
thấy
mặc
dầu
đang
mở
cuộc
oanh
tạc
Bắc
Việt
trong
suốt
mùa
xuân
và
mùa
hè
1972,
Tổng
thống
Nixon
đã
đi
đến
kết
luận
rằng
Hoa
Kỳ
ủng
hộ
việc
“Nam
Việt
Nam
có
thể
không
bao
giờ
còn
tồn
tại
dù
bất
cứ
cách
nào.”
(South
Vietnam
probably
can
never
even
survive
anyway).
Ông
nói
với
Cố
vấn
An
ninh
Kissinger:
“Henry,
chúng
ta
cũng
phải
nhận
thức
rằng
thắng
trong
một
cuộc
bầu
cử
là
hết
sức
quan
trọng.
Nó
hết
sức
quan
trọng
trong
năm
nay,
nhưng
chúng
ta
có
thể
có
một
chính
sách
ngoại
giao
sống
còn
(a
viable
foreign
policy)
nếu
một
năm
kể
từ
bây
giờ
hay
hai
năm
kể
từ
bây
giờ,
Bắc
Việt
thôn
tính
Nam
Việt
Nam?
Đó
thật
là
vấn
đề.”
Kissinger
trả
lời:
“Nếu
một
hay
hai
năm
kể
từ
bây
giờ,
Bắc
Việt
thôn
tính
Nam
Việt
Nam,
chúng
ta
có
thể
có
một
chính
sách
ngoại
giao
sống
còn
nếu
coi
điều
đó
như
thể
là
kết
quả
của
sự
bất
tài
của
người
Nam
Việt
Nam
(if
it's
the
result
of
South
Vietnamese
incompetence.)
Lúc
đó,
Tổng
Thống
Thiệu
và
các
nhà
cầm
quyền
tại
miền
Nam
không
hay
biết
gì.
Khi
Hoa
Kỳ
ép
buộc
VNCH
phải
ký
Hiệp
Định
Paris
có
những
điều
khoản
hoàn
toàn
bất
lợi
cho
miền
Nam,
Tổng
Thống
Thiệu
cũng
đã
chấp
nhận
ký
sau
khi
Tổng
Thống
Nixon
hứa:
“Tôi
tuyệt
đối
cam
đoan
với
Ngài
rằng
nếu
Hà
Nội
không
tuân
theo
những
điều
kiện
của
Hiệp
Định
nầy
thì
tôi
cương
quyết
sẽ
có
hành
động
trả
đủa
mau
lẹ
và
ác
liệt.”
Nhưng
để
cho
miền
Nam
sụp
đổ
trong
vòng
một
hay
hai
năm
sau
Hiệp
Định
Paris
không
phải
là
chuyện
dễ,
vì
lúc
đó
Quân
Lực
VNCH
còn
khá
mạnh.
TÌNH
HÌNH
QUÂN
LỰC
VNCH
NĂM
1975
Đầu
năm
1975,
QLVNCH
vẫn
còn
có
một
lực
lượng
khá
hùng
hậu,
với
quân
số
khoảng
1.351.000
người,
trong
đó
có
495.000
chủ
lực
quân,
475.000
địa
phương
quân
và
381.000
quân
"phòng
vệ
dân
sự"
có
vũ
trang.
Lục
quân
gồm
11
sư
đoàn
bộ
binh,
1 sư
đoàn
nhảy
dù,
1 sư
đoàn
thủy
quân
lục
chiến,
liên
đoàn
81
biệt
cách
dù,
15
liên
đoàn
biệt
động
quân
(tương
đương
với
5 sư
đoàn), lực
lượng
Lôi
Hổ
và
Biệt
Hải
thuộc
Nha
Kỹ
thuật,
4 lữ
đoàn
kỵ
binh
thiết
giáp
(với
2074
xe
thiết
giáp). Về
pháo
binh,
QLVNCH
có
1492
khẩu
đại
bác
(hơn
một
nửa
là
105
ly,
1/4
là
155
ly
và
khoảng
15%
là
175
ly).
Không
quân
có
khoảng
60.000
quân,
có 5
sư
đoàn
không
quân
tác
chiến
gồm
20
phi
đoàn
khu
trục
cơ,
23
phi
đoàn
trực
thăng,
1 sư
đoàn
vận
tải,
1
không
đoàn
tân
trang
chế
tạo,
4
phi
đoàn
hỏa
long,
v.v,
với
1850
phi
cơ
các
loại
(trong
đó
có
510
máy
bay
chiến
đấu
và
900
trực
thăng).
Hải
quân
có
hơn
40.000
quân,
gồm
3
lực
lượng
tác
chiến:
(1) Hành
quân
lưu
động
sông
(với
14
giang
đoàn
trang
bị
khoảng
260
chiến
đỉnh),
(2) Hành
quân
lưu
động
biển
(một
hạm
đội
trang
bị
tuần
dương
hạm,
hộ
tống
hạm,
khu
trục
hạm,
tuần
duyên
hạm,
giang
pháo
hạm,
trợ
chiến
hạm,
dương
vận
hạm,
hải
vận
hạm
và
giang
vận
hạm).
(3)
các
lực
lượng
đặc
nhiệm,
trong
đó
có
Liên
đoàn
Người
nhái.
Làm
thế
nào
để
hủy
hoại
lực
lượng
này
rồi
giao
cho
Trung
Quốc
và
CSVN
trong
một
thời
gian
khoảng
hai
năm
và
Mỹ
sẽ
không
còn
dính
líu
gì
đến
cuộc
chiến
nữa?
ĐÁNH
LỪA
TỔNG
THỐNG
THIỆU
Để
thực
hiện
chủ
trương
nói
trên,
Hoa
Kỳ
vừa
cắt
bớt
viện
trợ
để
miềm
Nam
suy
yếu
dần,
vừa
đánh
lừa
Thổng
Thống
Thiệu.
Miền
Nam
lúc
đó
cũng
có
nhiều
nhà
phân
tích
tình
hình
chính
xác,
nhưng
Tổng
Tống
Thiệu
là
người
độc
đoán
và
thích
hành
động
theo
cảm
tính
nên
chẳng
nghe
ai.
Trong
cuốn
“Tâm
tư
Tổng
Thống
Thiệu”,
Tiến
Sĩ
Nguyễn
Tiến
Hưng
cho
biết
chính
Tổng
Thống
Thiệu
đã
nói
với
ông:
“Tôi
luôn
là
người
quyết
định.
Luôn
luôn
như
vậy.
Tôi
có
thể
nghe
người
khác
gợi
ý
một
quyết
định,
nhưng
rồi
làm
quyết
định
ngược
lại.”
(tr.
373).
Khi
chọn
người
để
thay
thế
ông
Ngô
Đình
Diệm,
người
Mỹ
không
chọn
một
nhà
chính
trị
có
khả
năng
bảo
vệ
miền
Nam
mà
chỉ
chọn
những
người
bảo
đảm
sẽ
làm
theo
ý
họ.
Trước
hết
Mỹ
chọn
Tướng
Nguyễn
Khánh
và
Tướng
Trần
Thiện
Khiêm.
Nhưng
khi
Tướng
Nguyễn
Khánh
gây
rối
loạn,
họ
dùng
cặp
Nguyễn
Văn
Thiệu
và
Trần
Thiện
Khiêm.
Đây
là
những
người
không
có
tầm
nhìn
chiến
lược
cả
về
chính
trị
lẫn
quân
sự.
Mọi
việc
đều
để
Mỹ
lèo
lái.
Quả
thật
ông
Thiệu
không
có
khả
năng
nhìn
thấy
Mỹ
sẽ
bỏ
miền
Nam
và
tìm
ra
được
một
con
đường
nào
khác
để
cứu
miền
Nam.
Ông
coi
miền
Nam
như
của
Mỹ.
Mỹ
đưa
đủ
tiền,
ông
giữ
cả
miền
Nam.
Mỹ
rút
bớt
tiền,
ông
thu
nhỏ
lãnh
thổ
lại.
1.-
Cắt
bớt
viện
trợ
Như
chúng
ta
đã
biết
số
viện
trợ
quân
sự
Mỹ
cho
VNCH
đã
bị
giảm
dần
sau
Hiệp
Định
Paris
ngày
27.1.1973:
1972
–
1973:
1 tỷ
614
triệu;
1973
–
1974:
1 tỷ
026
triệu
và
1974
–
1975
xuống
còn:
700
triệu.
2.-
Đánh
lừa
bằng
tài
liệu
Trong
cuốn
“Khi
Đồng
Minh
Tháo
Chạy”
(từ
tr.
231
–
236),
ông
Hưng
có
kể
lại
rằng
ông
có
được
đọc
trong
“Phòng
Tình
Hình”
của
Dinh
Độc
Lâp
một
tập
báo
cáo
do
Tướng
John
E.
Murray
(người
điều
khiển
cơ
quan
DAO) và
Bộ
Tổng
Tham
Mưu
trình
lên.
Mặc
dầu
có
nhiều
báo
cáo
của
DAO
đã
được
giải
mã,
chúng
tôi
chưa
tìm
thấy
bản
văn
này,
nhưng
ông
Hưng
cho
biết
ông
nhớ
được
những
điểm
chính
của
bản
báo
cáo
đó
như
sau:
-
Nếu
mức
độ
quân
viện
là
1,4
tỷ
thì
có
thể
giữ
được
tất
cả
những
khu
đông
dân
cư
của
cả
bốn
Vùng
Chiến
Thuật.
-
Nếu
là
1,1
tỷ
thì
Quân
Khu
I
phải
bỏ;
-
Nếu
là
900
triệu
thì
khó
lòng
giữ
được
QK I
và
II,
hoặc
khó
đương
đầu
với
cuộc
tấn
công
của
Bắc
Việt;
-
Nếu
là
750
triệu
thì
chỉ
có
thể
phòng
thủ
vài
khu
vực
chọn
lọc,
và
khó
điều
đình
được
với
Bắc
Việt;
-
Nếu
quân
viện
dưới
600
triệu
thì
chính
phủ
VNCH
chỉ
còn
giữ
được
Sài
Gòn
và
vùng
châu
thổ
song
Cửu
Long.
Ông
Hưng
cho
biết
Tướng
John
Murray
kết
luận:
“Tôi
có
thể
ví
sự
mất
tiền
xấp
xỉ
như
mất
đất
vậy.”
Từ
ngày
Mỹ
tham
chiến
ở
Việt
Nam
đến
ngày
miền
Nam
mất,
chúng
ta
chưa
bao
giờ
thấy
các
báo
cáo
hay
tài
liệu
phân
tích
nào
của
cơ
quan
MACV
hay
DAO
được
tiết
lộ
cho
Bộ
Tổng
Tham
Mưu
hay
bất
cứ
cơ
quan
nào
của
VNCH.
Chúng
ta
chỉ
biết
được
một
số
tài
liệu
này
sau
khi
được
chính
phủ
Hoa
Kỳ
giải
mã.
Thế
thì
tại
sao
tài
liệu
nói
trên
lại
được
tiết
lộ
cho
Bộ
Tổng
Tham
Mưu
VNCH?
Chắc
chắn
là
phải
có
âm
mưu
gì.
Ông
Hưng
cho
rằng
vì
bản
báo
cáo
này,
ông
Thiệu
đã
nghĩ
ra
chiến
lược
mới
“Đầu
bé
đít
to”,
tức
bỏ
Vùng
I và
II
(đầu).
Ông
Thiệu
thường
nói:
“Từng
chiến
lược
cho
từng
mức
viện
trợ.”
(tr.
235),
sau
đó
ông
dùng
chữ
“tái
phối
trí”.
Thật
ra,
bản
báo
cáo
mà
ông
Hưng
nhắc
đến
ở
trên,
nếu
có,
cũng
chỉ
là
một
bản
phân
tích
tình
hình
chứ
không
phải
là
một
giải
pháp
hay
một
kế
hoạch
hành
động
được
đề
nghị.
Nếu
Tổng
Thống
Thiệu
nghĩ
đó
là
một
đề
nghị
về
kế
hoạch
hành
động
là
hoàn
toàn
sai
lầm.
3.-
Đánh
lừa
bằng
kế
hoạch
giả
Cơ
quan
tình
báo
Hoa
Kỳ
đã
không
dùng
một
tướng
Mỹ
mà
dùng
một
tướng
Úc
để
đánh
lừa
Tổng
Thống
Thiệu.
Trong
bài
thuyết
trình
“"Get
Me
Ten
Years':
Australia's
Ted Serong
in
Vietnam,
1962-1975",
bà
Tiến
sĩ
Anne
Blair,
một
giảng
viên
về
Quan
Hệ
Quốc
Tế
và
Nghiên
Cứu
về Á
Châu
tại
Đại
Học
Victoria
University
of
Technology
ở
Úc,
đã
cho
biết
vào
tháng
12
năm
1974,
Thủ
Tướng
Trần
Thiện
Khiêm
có
tiếp
xúc
với
Tướng
Ted
Serong
và
yêu
cầu
ông
ta
đưa
ra
một
kế
hoạch
cứu
vãn
miền
Nam.
Tướng
Ted
Serong
đã
khuyến
cáo
rút
khỏi
Quân
Khu
I và
Quân
Khu
II,
với
lý
do
là
2/3
Quân
Lực
VNCH
đã
được
triển
khai
ở
phía
bắc
trong
khi
ở
nơi
này
chỉ
có
1/10
dân
số
và
1/3
tài
nguyên
của
miền
Nam.
Chúng
ta
nên
nhớ
rằng
cả
Tướng
Trần
Thiện
Khiêm
lẫn
tướng
Đặng
Văn
Quang
đều
là
nhân
viên
CIA
được
cài
vào
để
theo
dõi
và
kiểm
soát
các
hành
động
của
Tổng
Thống
Thiệu.
Nhiều
người
nghi
ngờ
việc
Tướng
Khiêm
đi
tìm
gặp
tướng
Ted
Seron
là
theo
lệnh
của
CIA.
Ông
Hưng
cho
biết
Tổng
Thống
Thiệu
đã
chỉ
thị
Tướng
Đặng
Văn
Quang,
Cố
Vấn
An
Ninh
Phủ
Tổng
Thống,
phối
hợp
với
Tướng
Ted
Serong
nghiên
cứu
lập
một
phòng
tuyến
kéo
dài
từ
Tuy
Hoà
đến
Tây
Ninh
để
làm
phòng
tuyến
rút
quân!
Tướng
Ted
Seron
là
ai
mà
được
giao
cho
nhiệm
vụ
lập
phòng
tuyến
ở
Tuy
Hoà?
Tướng
Francis
Philip
“Ted”
Serong
(1915
–
2002)
tốt
nghiệp
Trường
Huấn
Luyện
Quân
Đội
Hoàng
Gia
tại
Duntroon
vào
năm
1937,
có
nhiều
kinh
nghiệm
về
chiến
trường
Đông
Nam
Á.
Năm
1961
ông
được
cử
làm
cố
vấn
cho
quân
đội
Miến
Điện.
Do
kinh
nghiệm
của
ông
về
chống
nổi
dậy
(counterinsurgency),
theo
đề
nghị
của
CIA,
Bộ
Ngoại
Giao
Hoa
Kỳ
đã
yêu
cầu
chính
phủ
Úc
cho
ông
đến
phục
vụ
tại
miền
Nam
Việt
Nam.
Tại
đây,
ông
vừa
chỉ
huy
một
toán
nhỏ
người
Úc
vừa
là
Cố
Vấn
Chống
Nổi
Dậy
cho
MACV
dưới
thời
Tướng
Harkins.
Theo
bà
Blair,
Tướng
Harkins
không
tin
vào
chống
nổi
dậy
và
ông
không
muốn
một
cố
vấn.
Tướng
Ted
Serong
đã
đưa
nhiều
đề
nghị
về
huấn
luyện
quân
lực
VNCH
nhưng
không
được
áp
ứng.
Như
vậy,
Tướng
Ted
Serong
chỉ
là
một
chuyên
gia
về
du
kích
chiến.
Ông
không
phải
là
một
nhà
chiến
lược.
Ông
chỉ
là
người
được
Mỹ
dùng
để
gài
bẩy
Tổng
Thống
Thiệu.
MỘT
QUYẾT
ĐỊNH
ĐIÊN
RỒ
Năm
1974,
tin
Tổng
Thống
Thiệu
sẽ
bỏ
Cao
Nguyên
và
miền
bắc
Trung
Phần,
rút
quân
về
phòng
thủ
ở
Tuy
Hoà
đã
được
tiết
lộ
ra,
nhưng
không
ai
tin
vì
hai
lý
do:
(1)
Không
thể
lập
một
phòng
tuyến
từ
Tuy
Hòa
kéo
dài
tới
Tây
Ninh
được
vì
địa
hình
không
cho
phép
hình
thành
một
phòng
tuyến
như
vậy.
(2)
Muốn
rút
quân
ở
Cao
Nguyên
và
phía
bắc
miền
Trung
phải
thương
thuyết
với
Hà
Nội
và
ký
một
hiệp
ước
như
Hiệp
Định
Genève
1954,
trong
đó
ấn
định
lại
biên
giới
giữa
hai
bên,
thời
hạn
di
tản,
rút
quân…
việc
“tái
phối
trí”
mới
có
thể
thực
hiện
được.
Vì
thế,
không
ai
tin
việc
“tái
phối
trí”
có
thể
xẩy
ra
khi
ông
Thiệu
chưa
thương
thuyết
để
ký
với
Hà
Nội
một
hiệp
ước
thu
nhỏ
lãnh
thổ
lại.
Nhưng
ông
Thiệu
đã
làm
điều
điên
rồ
đó.
Đầu
năm
1975,
Tướng
Ted
Serong
thông
báo
cho
Tổng
Thống
Thiệu
thời
hạn
chót
cho
việc
tái
phối
trí
quân
đội
phải
kết
thúc
nội
trong
tháng
hai.
Ông
cũng
đã
nói
với
Đức
Cha
Nguyễn
Văn
Thuận,
Giám
Mục
Nha
Trang,
rằng
ngài
nên
"chuẩn
bị
cho
năm
1955
một
lần
nữa”,
tức
lại
đi
di
cư!
Ngày
10.3.1975
Ban
Mê
Thuột
bị
mất
và
Quân
Lực
VNCH
khó
có
thể
lấy
lại
được.
Nhân
vụ
này,
ngày
14.3.1975
Tổng
Thống
Thiệu
cùng
với
các
tướng
Trần
Thiện
Khiêm,
Đặng
Văn
Quang
và
Cao
Văn
Viên
đến
Cam
Ranh
họp
với
Tướng
Phạm
Văn
Phú,
Tư
Lệnh
Quân
Đoàn
2.
Tổng
Thống
Thiệu
hỏi
Tướng
Cao
Văn
Viên:
-
Còn
quân
trừ
bị
để
tăng
cường
cho
Quân
Đoàn
2
không?
Tướng
Viên
trả
lời:
-
Không
còn.
Tổng
Thống
Thiệu
quay
qua
hỏi
Tướng
Phú:
-
Nếu
không
có
quân
tăng
viện,
anh
còn
giữ
được
bao
lâu?
Tướng
Phú
trả
lời:
-
Tôi
có
thể
giữ
được
một
tháng
với
điều
kiện
không
quân
yểm
trợ
tối
đa
và
tiếp
tế
bằng
không
vận
đầy
đủ
nhu
cầu
về
tiếp
liệu,
vũ
khí,
đạn
dược…
Tổng
Thống
Thiệu
nói
rằng
các
điều
kiện
đó
không
thể
thỏa
mãn
được.
Vậy
phải
rút
khỏi
Kontum
và
Pleiku
để
bảo
toàn
lực
lượng,
đưa
quân
về
giữ
đồng
bằng
ven
biển
tiếp
tế
thuận
lợi
hơn.
Tổng
Thống
Thiệu
hỏi:
-
Rút
bằng
đường
19
có
được
không?
Tướng
Viên
trả
lời:
-
Trong
lịch
sử
chiến
tranh
Đông
Dương
chưa
có
lực
lượng
nào
rút
theo
đường
19
mà
không
bị
tiêu
diệt.
Tổng
Thống
Thiệu
lại
hỏi:
-
Thế
thì
đường
14
ra
sao?
Tướng
Viên
nói:
-
Đường
14
càng
không
được.
Sau
khi
thảo
luận,
mọi
người
thấy
chỉ
còn
đường
số 7
từ
lâu
không
dùng
đến,
tuy
dài
(khoảng
228
km) và
xấu
nhưng
tạo
được
yếu
tố
bất
ngờ.
Tổng
Thống
Thiệu
chỉ
thị
không
thông
báo
cho
các
tiểu
khu
và
chi
khu
biết,
cứ
để
họ
tiếp
tục
chống
giữ,
khi
ta
rút
xong,
ai
biết
thì
biết.
Tổng
Thống
nói
địa
phương
quân
(36
tiểu
đoàn) toàn
là
người
Thượng,
trả
chúng
về
với
Cao
nguyên.
Như
vậy
các
tỉnh
trưởng,
quận
trưởng,
địa
phương
quân,
cảnh
sát,
phòng
vệ
dân
sự
và
các
nhân
viên
hành
chánh
đều
bị
bỏ
lại.
Đại
Tá
Phạm
Duy
Tất,
Tư
Lệnh
Biệt
Động
Quân
Quân
Đoàn
2
được
thăng
Chuẩn
Tướng
để
chỉ
huy
cuộc
rút
quân.
Tổng
Thống
cấm
không
ai
được
thông
báo
cho
Mỹ
biết.
ĐOÀN
QUÂN
TAN
RÃ
Diễn
biến
về
cuộc
tháo
chạy
trên
Liên
tỉnh
lộ 7
rất
bi
thảm.
Ở
đây
chúng
tôi
chỉ
ghi
lại
những
nét
chính.
-
Lúc
đó
QLVNCH
còn
có
tại
Kontum
và
Pleiku
7
Liên
Đoàn
Biệt
Động
Quân,
đó
là
các
Liên
Đoàn
22,
23,
24
và
25,
được
tăng
cường
thêm
3
Liên
Đoàn
biệt
phái
từ
Sài
Gòn
lên
là
4, 6
và
7.
Ngoài
ra,
Cao
Nguyên
còn
có
36
tiểu
đoàn
địa
phương
quân.
-
Xe
tăng
và
thiết
giáp:
4
thiết
đoàn
với
371
xe.
Pháo
binh:
8
tiểu
đoàn
với
230
khẩu
các
cỡ
từ
105
đến
175
mm.
- Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
-
Riêng
Sư
đoàn
23
gồm
các
Trung
Đoàn
44,
45
và
53
và
Liên
Đoàn
21
Biệt
Động
Quân
đã
bị
tan
rã
trong
trận
Ban
Mê
Thuột.
-
Sáng
ngày
15.3.1975,
hai
Liên
Đoàn
6 và
23
BĐQ
từ
Kontum
được
chuyển
về
Pleiku.
Dân
chúng
chạy
theo
gây
ra
náo
loạn.
-
Lúc
1
giờ
chiều
ngày
15.3.1975
cuộc
di
tản
chính
thức
bắt
đầu.
Thiết
đoàn
19,
Liên
Đoàn
6 và
Liên
Đoàn
24
BĐQ
mở
đường,
đến
tối
đã
vượt
qua
khỏi
Phú
Bổn,
đèo
Tuna
và
tới
quận
Phú
Túc
để
yểm
trợ
công
binh
làm
cầu.
Sáng
16.3.1975
đoàn
quân
mở
đường
tiếp
tục
đi
xuống
Củng
Sơn.
-
Cuộc
hành
trình
mà
đoàn
quân
phải
di
tản
khá
dài:
Từ
Pleiku
tới
Phú
Bổn
khoảng
93
km
và
từ
Phú
Bổn
đến
Tuy
Hòa
khoảng
130
km.
-
Ngày
17.3.1975,
Thiết
Đoàn
21
và
Liên
Đoàn
7
BĐQ
dẫn
đầu
đoàn
quân
và
dân
tiến
về
Phú
Bổn.
Theo
sau
là
Liên
Đoàn
22
và
Liên
Đoàn
23,
kéo
theo
một
đoàn
quân
xa
khoảng
2000
chiếc
và
một
đoàn
xe
dân
sự
đủ
loại
cũng
gần
2000
chiếc.
Liên
Đoàn
4 và
Liên
Đoàn
25
đi
tập
hậu.
Đoàn
di
tản
đi
rất
chậm
vì
đường
hẹp,
bị
hư
hỏng
và
thường
đạp
lên
nhau
để
tiến
tới
trước.
Tối
17.3.1975
đoàn
xe
dừng
lại
ở
tỉnh
lỵ
Phú
Bổn
vì
không
tiến
được
nữa.
Cộng
quân
đã
chận
ở
đèo
Tuna
cách
Phú
Bổn
khoảng
4
km.
Vì
cuộc
rút
quân
quá
bất
ngờ
nên
phải
đến
chiều
ngày
17.3.1975,
Bộ
Tư
Lệnh
Tây
Nguyên
của
Cộng
quân
mới
biết
được
và
ra
lệnh
cho
tiểu
đoàn
9
thuộc
trung
đoàn
64,
Sư
đoàn
320,
đang
đóng
chốt
trên
đường
đi
Thuận
Mẫn,
đem
quân
chận
ở
đèo
Tuna
và
pháo
kích
vào
đoàn
quân
và
dân
đang
dừng
lại
ở
Phú
Bổn.
Chuẩn
Tướng
Phạm
Duy
Tất
được
trực
thăng
tới
bốc
đi
từ
trường
tiểu
học
Phú
Bổn,
đã
chỉ
huy
ở
trên
trời,
ra
lệnh
cho
Đại
Tá
Nguyễn
Văn
Đồng,
Tư
Lệnh
Lữ
Đoàn
2 Kỵ
Binh,
đang
chỉ
huy
ở
dưới
đất,
phải
phá
cho
được
cái
chốt
này.
Có
không
quân
bay
tới
yểm
trợ.
Liên
đoàn
25
BĐQ
đang
đi
tập
hậu
đã
cùng
với
Liên
Đoàn
7 và
thiết
giáp
tiến
lên
phá
cái
chốt
ở
đèo
Tuna.
Nhưng
Đại
Tá
Nguyễn
Văn
Đồng
cho
chúng
tôi
biết
Biệt
Động
Quân,
thiết
giáp
và
không
quân
đã
không
phá
nổi
cái
chốt
đó.
Chiếc
xe
tăng
nào
bò
lên,
chúng
bắn
cháy
chiếc
đó.
Thảm
hoạ
xảy
ra
khi
máy
bay
oanh
tạc
lầm
quân
của
phe
ta.
Địch
lại
pháo
kích
dữ
dội
vào
tỉnh
lỵ
Phú
Bổn,
quân
và
dân
chạy
tán
loạn,
nên
đoàn
quân
tan
rã.
Không
còn
chỉ
huy
được,
ông
và
một
số
quân
nhân
phải
lội
bộ
đi
vòng
dưới
chân
đèo
Tuna
để
vượt
qua,
nhưng
rồi
cũng
đã
bị
bắt
khi
đến
gần
Củng
Sơn.
Đại
Tá
Đặng
Đình
Siêu,
Tư
Lệnh
Phó
Lữ
Đoàn
2 Kỵ
Binh,
theo
tàn
quân
của
Liên
Đoàn
4
BĐQ
chạy
băng
rừng
và
về
được
đến
Phú
Yên.
Liên
Đoàn
24
BĐQ
đóng
gần
Củng
Sơn
do
Trung
Tá
Niên
chỉ
huy
bị
tấn
công
dữ
dội,
cũng
đã
bị
tan
rã.
Chỉ
có
Thiết
Đoàn
19
và
Liên
Đoàn
6
BĐQ
về
tới
được
Tuy
Hòa.
Một
cuộc
kiểm
tra
cho
biết
có
ít
nhất
3/4
lực
lượng
của
Quân
đoàn
II
đã
bị
Cộng
quân
tiêu
diệt,
bắt
sống,
đào
ngũ
hay
rã
ngũ.
Khoảng
40.000
dân
chúng
di
tản
theo
đoàn
quân,
chỉ
có
khoảng
1/4
đến
nơi.
Số
người
chết
do
hỏa
lực
của
cả
hai
bên,
do
đuối
sức
hay
đói
không
ước
tính
được.
Đa
số
phải
trở
lại
Pleiku.
ooOoo
Kể
từ
khi
Tổng
Thống
Ngô
Đình
Diệm
bị
giết,
Hoa
Kỳ
đã
chi
phối
miền
Nam
cả
về
quân
sự,
kinh
tế
lẫn
chính
trị
và
đưa
người
của
họ
lên
nắm
chính
quyền.
Trong
tình
trạng
như
vậy,
miền
Nam
khó
quyết
định
được
số
phận
của
mình.
Nhưng
Tổng
Thống
Thiệu
là
người
phải
chịu
trách
nhiệm
trước
dân
tộc
và
trước
lịch
sử
về
những
thảm
trạng
do
các
quyết
định
sai
lầm
của
ông
gây
ra.
Chiều
29.4.1975,
Tướng
Ted
Seron
đã
rời
khỏi
Việt
Nam
trên
một
chiếc
trực
thăng
ở
trên
nóc
của
Toà
Đại
Sứ
Mỹ.
Số
phận
của
VNCH
chấm
dứt.
Nguồn : Lữ Giang