QĐND
- Tôi nguyên là chiến sĩ đại đội 18 thông tin của Trung đoàn 141, đoàn
H. Sau khi đánh Nam Lào xong, hè 1971, đơn vị tôi vào giải phóng Pha
Lan, Đồng Hến, tiếp tục hành quân hướng Tây Nguyên với tinh thần:
“Trường Sơn chuyển mình, Pô kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng
Tây Nguyên”. Chúng tôi vào đánh Đắc Tô-Tân Cảnh như xem phim: Pháo rót
vào, tăng tiến lên, bộ binh theo sau giải phóng. Anh bạn tôi là Nguyễn
Xuân Hương, ở đại đội trinh sát tâm sự: Thế hệ chúng mình sẽ tiếp quản
thành phố Sài Gòn. Nhưng...
Biệt khu 24 - Những ngày máu lửa
41
năm trước, chúng tôi hăng hái lên đường. Gia đình Hương có hai trai,
anh trai đang ở mặt trận. Hương được miễn nghĩa vụ, lại đang công tác ở
nhà máy xay. Thế mà, nghe tin ở quê tuyển quân, Hương vội về viết đơn
tình nguyện lên đường. Hương ngoan, hiền lành, chịu khó, nên trung đoàn
đưa Hương làm công vụ cho đồng chí trung đoàn phó tên Đăng. Sau đó,
Hương được cử đi học y tá và làm y tá cho đại đội 21 trinh sát. Công
việc nào Hương cũng làm tốt, được đồng đội tin yêu.
|
Thăm người đồng đội chưa biết tên ( chụp tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Bình Thuận - ảnh:NGUYỄN VĂN MINH)
|
Ta
quyết định đánh vào thị xã Kon Tum dịp 19-5-1972 để lập thành tích dâng
lên mừng sinh nhật Bác Hồ. Lương thực quá khó khăn, chúng tôi xuất trận
với súng ống và cả… bánh sắn bên mình!
Tôi
được lệnh đeo máy dẫn đường vào cửa mở. Hương cũng đánh trận thị xã Kon
Tum. Mấy ngày khi ngớt tiếng súng, tôi gặp Hương ngồi giữa mênh mông
của phi trường. Hương chia sẻ cho tôi ít đường, sữa, lương khô. Còn cái
bánh sắn, Hương cũng chia đôi bảo tôi ăn. Thấy tôi ngần ngại, Hương nói:
"Cậu ăn với mình đi, kẻo rồi đánh nhau nhỡ có chết không phải làm... ma
đói!".
Tôi
và Hương đều cùng được lệnh chiến đấu giữ biệt khu 24 của sân bay. Cả
thị xã Kon Tum ầm ào tiếng gầm rú của các loại pháo, đạn, xe tăng ù ù
chà đi chà lại đến nhức óc. Rồi có lẽ, ruồi nhiều thế nào thì trực thăng
của địch lúc đó gầm thét giữa bầu trời nhiều như thế. Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu lúc đó “Quyết tử thủ Kon Tum” mà!
10
ngày sau, 5-6-1972, khoảng 8 giờ tối, tôi nhìn sang lô cốt của Hương
(vì từ chỗ tôi sang chỗ Hương khoảng 10-12m), Hương đang chững chạc nhả
đạn về phía quân thù. Nhưng ôi! Một ánh chớp chói lòa, một âm thanh chói
tai! Hương hy sinh rồi! Tôi và đại đội phó Quang nhảy lên khỏi hầm, một
ánh chớp nữa lóe lên, tôi “bị” rồi và một suy nghĩ thoáng nhanh: “Vĩnh
biệt mẹ!”. Nhưng may mà tôi không hy sinh, được cấp cứu, điều trị và ra
Bắc.
Chiến
tranh kết thúc, làng tôi có 3 anh em là tôi, Biềng, Hương cùng lên
đường chiến đấu từ cuối năm 1969 thì hai người hy sinh. Tháng 4-1970,
Biềng được điều đi trước vào đơn vị xăng dầu đường dây 559. Chúng tôi
bảo nhau: Được vào đơn vị đó, chắc chắn cuộc chiến kết thúc, “cái gáo”
chắc chắn đem về cho “u” rồi…
Thế
mà, một bữa, sau khi đánh Nam Lào xong, tôi và Hương lếch thếch trên
vạt đồi đi lấy gạo. Thấy mấy nấm mồ ven đường, đất lấp gần như còn mới,
chúng tôi nói với nhau:
- Vào xem ai lại hy sinh ở đây!
Vào
đến ngôi mộ đầu tiên, chúng tôi không tin vào mắt mình: “Hạ sĩ Trần Đức
Biềng. Quê quán: Ninh Sơn, Gia Khánh, Ninh Bình...”. Hai chúng tôi đột
ngột quá! Đứa nọ nhìn nhanh sang đứa kia, từ từ ngả mũ, nghẹn ngào…
Hè
2007, vợ chồng tôi trong một chuyến du lịch, được thăm viếng nghĩa
trang Trường Sơn, tôi lại bàng hoàng thấy mộ Biềng, Biềng đã được quy
tập về đây. Việc của Biềng thế là tạm ổn, còn Hương?
Tôi về tìm lại bạn tôi
Hương
và tôi cùng cảnh ngộ, cùng sở thích nên hình ảnh bạn vẫn theo tôi suốt
cuộc đời. Vợ chồng tôi bảo nhau, cố gắng 27-7 hằng năm xuống gia đình
thắp nhang cho Hương. Một trong những nỗi trăn trở day dứt trong tôi là
chiến tranh trôi qua đã nhiều năm, giờ vẫn chưa biết Hương nằm lại nơi
nào. Cũng một phần bởi gia đình Hương nghèo lắm! Bố mẹ mất rồi, anh trai
mất rồi, chị gái bị mù từ nhỏ, chị dâu và các cháu còn vất vả với cuộc
sống mưu sinh.
Tôi
bàn với vợ, phải gặp gia đình Hương, lo cho được chuyện này. Khi tôi
đến gặp, gia đình rất mừng, đặc biệt chị dâu của Hương và cháu gái Huệ.
Nhưng quyết tâm là thế, trước mắt còn bao nan giải. Một là, chỉ biết
Hương hy sinh ở Kon Tum, khu vực biệt khu 24, giờ chẳng rõ nơi nào. Hai
là, tổ chức chuyến đi Kon Tum sẽ tốn kém không phải một triệu, hai triệu
mà phải vài chục triệu, một con số không nhỏ với gia đình Hương! Song,
tôi đề nghị gia đình cứ mạnh dạn lên, có quyết tâm, có sự đoàn kết, mọi
khó khăn sẽ qua. Tôi quyết tâm cùng gia đình bạn đi tìm hài cốt, vì tôi
đã từng trực tiếp chứng kiến lúc Hương hy sinh. May mà khi tôi xin phép
Ban giám hiệu trường tôi công tác, các anh đều ủng hộ ngay. Khó khăn thứ
hai, chúng tôi tìm đến một nhà ngoại cảm chuyên tìm hài cốt liệt sĩ,
nhờ hướng dẫn, giúp đỡ. Bạn tôi hy sinh ở thành phố Kon Tum là chính xác
rồi nhưng phường, phố nào thì tôi đâu biết? Thông tin thu được từ nhà
ngoại cảm cho biết, nơi yên nghỉ của bạn tôi hiện ở tổ 3, phường Thắng
Lợi, Thành phố Kon Tum, khá khớp với hoàn cảnh bạn tôi hy sinh, càng
củng cố quyết tâm lên đường của chúng tôi.
Chúng
tôi quyết định lên đường vào Kon Tum ngày 6-5-2011. Tôi về viết giấy
xin phép, xuống trường nơi tôi dạy. Thời gian này đang cuối năm, công
việc ở trường cực kỳ bận rộn. Không ngờ thầy Trần Quang Vinh-Hiệu
trưởng, không chỉ đồng ý ngay mà còn nắm tay tôi: “Đi tìm đồng đội, liệt
sĩ là việc thiêng liêng, là trách nhiệm của tất cả chúng ta, anh cứ đi,
việc ở nhà có chúng tôi!”. Tôi gặp anh chị em trong tổ, nói anh em
thông cảm và bàn giao chuyên môn. Thật tuyệt, từ chị Loan tổ phó đến tất
cả các anh em đều rất nhiệt tình ủng hộ và động viên tôi lên đường.
Đoàn
đi gồm 9 người từ Ninh Bình, nhằm hướng Kon Tum lên đường. Rất nhiều bà
con, kể cả không phải họ hàng đưa tiễn chúng tôi, nhiều người khóc, cả
Yến (vợ tôi) nước mắt cũng dàn dụa. Thế đấy, một dân tộc, cuộc chiến
tranh lùi qua gần nửa thế kỷ, vẫn những cuộc tiễn đưa đầy lệ. Giây phút
ngắn ngủi ấy tôi chạnh nhớ mấy câu thơ trong bài “Đại đội 18, gia đình
tôi” mà tôi sáng tác tặng đại đội 18 thông tin của mình, có đoạn: Bàn tay vẫy những bàn tay/Gạt đi dòng lệ, ngày mai trở về/Ra đi, nặng một lời thề/Diệt xong giặc Mỹ mới về quê hương...
Xe sắp đến ranh giới Ninh Bình-Thanh Hóa, tôi thầm nói với Hương:
-
Hương à! Nơi đây là điểm nghỉ chân từ quê vào của những ngày kéo xe cải
tiến đi lấy củi. Cơm đùm, cơm nắm vào đây phải không Hương. Đây cách
nhà trên hai chục cây và còn phải vào sâu, trèo đèo lội suối trên dưới
chục cây nữa, may mà giao thông ngày đó, xe cộ còn ít, nhiều khi vừa dắt
xe, vừa đi, vừa ngủ gật. Bây giờ mà thế thì toi!”.
Xe
vào miền Trung, qua cầu Bến Thủy. Tôi lại thầm nhớ tháng 7-1970, chúng
tôi ngồi trên thuyền để tiến vào Nam, trên dòng sông này vang lên những
câu hò, tiếng hát đầy lạc quan. Tiếng hò xứ Nghệ sao da diết đến vậy?
Cầu Bến Thủy giờ quá hiện đại và nghe nói đang tiến hành xây dựng cây
cầu Bến Thủy 2 nữa. Qua Đèo Ngang, không còn hoang tàn nữa mà nay là một
hầm xuyên đèo khá hiện đại. Thật quá nhiều đổi thay, xương máu chúng
tôi đổ xuống đã không uổng phí!
Cuối
cùng, chúng tôi cũng tới UBND phường Thắng Lợi. Đồng chí Lê Đức Hòa-Phó
chủ tịch phụ trách văn xã trực tiếp ra đón chúng tôi, dù hôm nay là
ngày nghỉ chủ nhật. Anh nói: “Không sao, chúng ta đi tìm đồng đội mà!”.
Nhìn vùng đất cao nguyên bạt ngàn mây gió giờ san sát nhà cửa, tôi chẳng
thể hình dung nơi Hương nằm ở đâu. Hỏi hoài mà chưa ai biết biệt khu
24. Bà con thấy lạ vây quanh rất đông. Bỗng dưng tôi thấy xúc động lạ
kỳ, thương bạn, tôi bật khóc đến khản tiếng. Lúc này, may mắn sao, tôi
gặp anh Tuân đồng hương, quê Yên Mô, nhà anh chếch phía trước nhà văn
hóa. Anh chỉ tay phía trước:
- Tôi về đây năm 1978, khoảng kia khi tôi về nó là phi trường, biệt khu 24 là khoảng nhà văn hóa.
Chúng
tôi tới khu nhà văn hóa còn đơn sơ, hè có thảm cỏ khá rộng. Hình ảnh
của 39 năm về trước, trận tấn công vào thị xã Kon Tum năm 1972 như những
thước phim quay chậm hiện về.
Ngày
hôm sau, thật diệu kỳ, chúng tôi đã tìm được nơi Hương nằm, khớp với
thông tin thu thập từ trước và thực địa nơi chúng tôi từng chiến đấu.
Bác Lê Văn Binh, nhà ngay sau gốc cây to, cho chúng tôi mượn bàn và
nhiều thứ cần thiết để đặt lễ, làm thủ tục tìm hài cốt.
Chúng
tôi bắt đầu đào. Một thanh niên từ nãy cứ theo dõi mọi hoạt động của
đoàn, tự nguyện cầm xẻng, cuốc làm rất nhiệt tình, say sưa, mồ hôi vã
ra, giúp chúng tôi từ đầu đến cuối. Sau tôi mới biết anh là Nguyễn Huy
Dần, giáo viên Trường THCS Thắng Lợi. Càng lúc, bà con kéo đến càng
đông. Có hai người đàn ông khoảng 40-50 tuổi nói nhỏ với nhau:
- Họ lấy hài cốt người đã hy sinh, mình xuống giúp họ một lúc.
Nói
rồi, họ tìm xẻng, tìm cuốc, cùng đào rất say sưa. Bác Lê Văn Binh, chủ
nhà cạnh gốc cây, đào cuốc miệt mài, mồ hôi đầm đìa trên áo. Công việc ở
ngay góc ngã ba đường phố, nghe nói tìm hài cốt liệt sĩ đã anh dũng
chiến đấu hy sinh trên quê hương nên bà con địa phương đứng vây chặt
vòng trong, vòng ngoài, nhiều người nước mắt rưng rưng.
Cuối
cùng, chúng tôi đã tìm được Hương. Đúng là Hương qua xác nhận của tôi,
người trực tiếp chứng kiến lúc Hương ngã xuống. Tôi đề nghị bồi dưỡng cô
bác đã nhiệt tình giúp đỡ, nhưng bà con đều khước từ. Chúng tôi làm các
thủ tục với UBND phường rồi lên đường đưa Hương về quê mẹ.
Khi
tất cả mọi việc của nơi hốt cốt hoàn thành, xe lăn bánh về phía Quảng
Nam, khoảng 20 giờ, xe dừng lại ăn cơm và nghỉ ngơi. Ngồi uống nước, cậu
Thiện cùng đoàn thổ lộ với tôi: "Lúc lấy hài cốt, em nhặt được một con
dao quắm và một quả lựu đạn anh à. Em đang để trên xe".
Tôi giật mình! Thì ra, đó là con dao quắm và quả lựu đạn US của Mỹ lâu ngày không còn mỏ vịt. Tôi thủ thỉ bên Hương:
-
Hương à! Kẻ thù của ta nguy hiểm là thế! Chúng biết chính sách thương
binh, liệt sĩ của ta mà! Một đồng chí hy sinh, nếu phải tiếp tục hy sinh
cả tiểu đoàn để lấy xác đồng đội, ta vẫn phải làm. Nên khi chôn Hương,
chúng đã cài lựu đạn, đúng không Hương! Cũng may mà thời gian đã 39 năm,
lựu đạn mất tác dụng rồi Hương nhỉ!
Sau
khi chúng tôi về quê, phường, đội xuống thu quả lựu đạn kiểm nghiệm sự
an toàn, nó đã không còn khả năng gây nổ, họ trả lại gia đình làm kỷ
vật. Nhưng gia đình Hương không muốn nhìn thấy thêm nỗi đau thương, chú
em Hương đã mang vứt xuống dòng sông, dòng sông quê hương từng nuôi lớn
chúng tôi...
(Giáo viên Trường THPT Yên Khánh B - Ninh Bình)