Người ta nói Gio Linh Bến Hải là hỏa đầu chiến tuyến. Sự ví von ấy đúng với tiềm thức người dân Việt từ khi đất nước chia đôi bởi một con sông ngăn cách, ghi dấu sự thù hận giữa hai bờ Nam Bắc dưới hai chế độ khác nhau. Nhưng trên thực tế rất đau thương và ác nghiệt. Vì muốn thôn tính miền Nam, không phải nhằm mục đích tái thống hợp, trả lại những gì hồn thiêng sông núi đã thiếu mất, mà chỉ để áp đặt sự độc tài toàn trị, sắt máu để cướp bóc, nên bất cứ nơi nào đánh phá mà gây hoang mang, áp đảo được tinh thần dân chúng và làm xáo trộn nền kinh tế, chính tri. Việt Nam Cộng Hòa, thì giặc Cộng Bắc Việt không bao giờ từ nan.
Sa Huỳnh tuy nhỏ bé, dân thưa và nghèo khó, chỉ
có Quốc lộ 1, con đường độc nhất xuyên qua, nhưng phần đất lại được mô tả như
cái cuống họng, nếu bị bóp nghẹt, năm tỉnh địa đầu phải ngất ngư, thân mình
vùng II cũng bủn rủn.
Vì vị trí then chốt chiến lược này, còn thêm sự
phòng thủ quá lỏng lẻo, dù địa thế hiểm trở khó tấn công, địch đã không ngần
ngại tung một lực lượng hùng hậu tiến chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, biến nơi đây
thành điểm nóng nhất, khiến dân chúng điêu linh sống trong cảnh dầu sôi lửa
bỏng đầu năm 73.
Do áp lực của đối phương quá nặng nề, tạo sức ép
về phía nam, đe dọa luôn bắc Bình Định, nên ngoài các đơn vị cơ hữu địa phương,
gồm Trung đoàn 40 của Sư đoàn 22 Bộ Binh cùng Chi đoàn 1 Chiến Xa thuộc Thiết
đoàn 14 Kỵ Binh đặt trong tình trạng khẩn trương, còn có Liên đoàn 6 Biệt Động
Quân Sài Gòn ra tiếp ứng. Các đại đơn vị này khống chế được tham vọng của kẻ
thù bành trướng từ Đức Phổ và nhất là từ mật khu An Lão hướng tây.
Nhìn qua các lực lượng nêu trên, người ta rất tin
tưởng Chi đoàn 1/14, có danh hiệu “Chi Đoàn Chiến Xa Voi Điên”, của Đại úy Hà
Mai Khuê, một sĩ quan trẻ dưới 30 tuổi. Dân chúng Bình Định làm sao quên được
những tháng năm kiêu hùng của đất nước mà Chi Đoàn Voi Điên đã từng nghiến nát
địch quân khắp chiến trường đẫm máu, từ mật khu An Lão chí đến Trị Thiên, Hạ
Lào. Nơi nào Kỵ binh Hà Mai Khuê không hằn sâu dấu xích phanh thây xác thù?
Trên 10 huy chương Anh Dũng Bội Tinh Việt Nam và một Ngôi Sao Đồng (The
Bronze Star Medal For Heroism In Ground Combat) do quân đội Hoa Kỳ trao tặng,
chứng to? Khuê một cấp chỉ huy tuyệt vời. Chưa đủ, con Voi Điên đầu đàn này đã
3 lần bị thương vẫn tình nguyện ở lại chiến trường, để tiếp tục gây kinh hoàng
cho Cộng quân khắp Bình Định.
Rồi đầu năm nay, 1973, không thể để mặt trận Sa
Huỳnh lan rộng, Chi đoàn 1/14 Chiến Xa với anh hùng Hà Mai Khuê đã sẵn sàng
dương oai nơi quê hương đầy huyền thoại, vang bóng một thời Đại Đế Quang Trung
Nguyễn Huệ.
Tại mạn bắc Sa Huỳnh, quận ly. Đức Phổ thuộc tỉnh
Quảng Ngãi, các thành phần tham chiến có Liên đoàn 1 Biệt Động Quân, hai Trung
đoàn 5 và 6 Sư đoàn 2 Bộ Binh, dưới sự yểm trợ của Hải quân, Không quân, Thiết
giáp, nhất là Pháo binh, đang góp phần làm bạt vía quân thù, như các trận đánh
vang danh khắp nẻo đường quê mẹ.
Nỗ lực chính là Liên đoàn 1 Biệt Động, có mặt nửa
đêm hôm qua đến từ Mộ Đức. Sáng nay, lực lượng Mũ Nâu này bắt đầu dàn trận ngay
cạnh nam khu phố Đức Phổ, lấy Quốc lộ 1 làm chuẩn, Tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân
phía tây, Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân hướng đông, cả hai cùng áp sát Sa Huỳnh.
Trước đoàn quân rực màu áo chiến hoa rừng như
thiên thần hiên ngang xung trận, bom đạn sắp nổ tung, dân chúng đã bao phen
chạy loạn, lại vội vã tìm nơi trú ẩn.
Nếu ai không xuôi ngược hay lui tới nhiều lần,
trí nhớ cũng dễ phai mờ hình ảnh một quận lỵ khô cằn và đìu hiu phía nam Quảng
Ngãi. Đó là Đức Phổ, con phố buồn muôn thuở, xa lạ, trước biển sau kề núi, dài
không quá năm trăm mét, nằm cặp theo Quốc lộ 1, con đường duy nhất có tráng
nhựa xuyên qua. Hầu hết các cửa tiệm trên tôn dưới ván, lá dừa xơ xác, xen kẽ
năm ba căn nhà gạch mái ngói âm dương cổ kính từ thời Pháp thuộc, mà nay nóc đã
đổ tường xiêu đầy vết đạn. Quê hương này vốn đã nghèo khó, còn xảy ra hằng năm
các trận cuồng phong dữ dội, không bão biển cũng gió núi giông nguồn, cùng giặc
về quấy nhiễu đêm đêm.
Rồi cả tháng nay CSBV xâm chiếm bắn phá chung
quanh khiến toàn quận tiêu điều, người lẫn súc vật ngổn ngang dưới những tàng
cây hè phố. Họ bỏ nhà cửa dồn về từ các xã ấp xa xôi, hẻo lánh, nhất là từ Sa
Huỳnh, nơi hai ngày trước mất đứt nửa Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân khi vừa trực
thăng vận đổ xuống, làm tình hình thêm căng thẳng.
Lần này sự xung trận của hai tiểu đoàn Mũ Nâu
khét danh, 21 và 37, đem lại niềm tin cho dân chúng, không riêng Quảng Ngãi, mà
cả năm tỉnh địa đầu vùng 1. Cộng quân từng truyền khẩu “Gặp Đỏ thì tránh, Xanh
lừa, gặp Vàng đánh líp”. Câu đó ám chỉ ba tiểu đoàn của Liên đoàn 1 Biệt Động.
Mấy năm trước quân nhân các cấp có đính trên nắp túi áo trái một băng vải nhỏ,
cùng màu khăn choàng cổ, đỏ là 21, xanh 37 và vàng 39. Địch nói nếu gặp vàng
đánh líp, tức chưa ngán Tiểu đoàn 39, còn có thể hơn được một, chứ lẽ nào thua
hết ba, mất mặt bác Hồ quá! Còn chúng bảo gặp “Xanh”, tức Tiểu đoàn 37, thì lừa
cũng phải. Vì đơn vị anh hùng này đã khét tiếng từ trận tử thu? Khe Sanh, thuộc
quận Hương Hóa Quảng Trị, 1968, chấn động thế giới, thời Đại úy Hoàng Phổ, Tiểu
đoàn trưởng.
Vì sợ, Việt Cộng luôn luôn tránh né Đỏ, nên Tiểu
đoàn 21 mỗi lần vào hành quân các tỉnh phía nam Đà Nẵng đều “thất nghiệp” dài
dài, trừ phi tao ngộ chiến. Lúc còn phục vụ ở Đại đội 2/21, có lần tại vùng
Hương An Bình Giang, Quảng Nam, tôi mới dàn ngang trung đội để xung phong thì
địch trong mục tiêu, dưới các chòm cây dương liễu, vụt trồi lên khỏi hầm, vừa
cắm đầu chạy tán loạn như bầy vịt vừa la to:
- 21!… 21!…
Nhưng Biệt Động Quân tắp vô quá lẹ, địch vọt
không kịp, bị bắn chúi nhủi nằm la liệt. Hôm đó lính bắt sống một tên và hỏi
một câu cắc cớ:
- Tại sao bỏ chạy?
Hắn đáp:
- Chúng em có lệnh rút lui khi gặp các anh đeo
băng “Đỏ” là Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân.
Đi hành quân, mà Việt Cộng cứ lẩn tránh, những
chàng trai diệt giặc đành thất nghiệp. Bây giờ kẻ thù hết đường trốn, hay lừa
ai được nữa, trước các mũi tiến thần tốc của hai Tiểu đoàn Xanh và Đỏ vào khai
tử, chắc chúng sẽ chết không kịp ngáp.
Với phòng tuyến trải dài trên các dãy đồi đá nhấp
nhô, vắt ngang từ chân núi Trường Sơn ra tới biển, Trung đoàn 141 Sư đoàn 2
Cộng Sản Bắc Việt tự cho đó là bức tường thép bảo vệ được mạn bắc đầm Nước Mặn,
ắt chúng đang lo sợ. Hai Tiểu đoàn BĐQ mỗi lúc một áp sát. Các cỗ trọng pháo
của ta trên các cao điểm phía đông phố Đức Phổ bắt đầu nhả đạn xuống mục tiêu
rộng lớn trải dài về hướng nam. Để nghênh đón cuộc tái chiếm Sa Huỳnh đẫm máu,
địch cũng tới tấp bắn chặn Biệt Động bằng các đầu đạn nổ lại rất ác liệt, như
phòng không 12 ly 7 và hỏa tiễn AT3, chúng gọi là D7. Toàn vùng rực lửa.
Đồng bào sinh sống nơi khu phố Đức Phổ đã vội
nhốn nháo rời khỏi nhà, nhập vào đám người “vô gia cư” đang màn trời chiếu đất
hai bên vỉa hè cả tháng nay, như một dòng thác lũ, họ ùn ùn kéo chạy dạt ra
hướng bắc tránh đạn phản pháo của Cộng quân.
Mở màn sự thiệt hại của đôi bên, một chiếc M113
có trang bị cây 106ly và khoảng 300 viên đạn bị trúng hỏa tiễn nổ tung một
lượt, tan tành từng mảnh văng xa hàng trăm mét, chỉ còn lại vạt đất nám đen.
May mắn, bốn người lính Thiết giáp kịp nhảy khỏi xe khi vừa thấy qua? AT3 lao
tới từ ngọn đồi cao 25 thước mé biển. Sự thoát hiểm này là nhờ đã được huấn
luyện.
AT3 vô cùng lợi hại, có vài đặc điểm giống TOW Hoa Kỳ, sức công phá chiến xa của nó như kim đâm bong bóng. Lúc bay đi phía sau đuôi đạn kéo theo một sợi kim loại, tựa dây đàn số 6 Guitare, nối liền với ống phóng (launcher). Dù công phá hữu hiệu nhưng nó cũng có yếu điểm là bay chậm, kêu xè xè, và sáng rực, dễ phát hiện. Khi nghe tiếng départ, thấy quả đạn lao tới lính thiết giáp phải rời khỏi xe, cách xa vài chục thước, bộ binh thì tản thưa, nằm xuống, nếu không, dù sắt thép cũng thành nước.
AT3 vô cùng lợi hại, có vài đặc điểm giống TOW Hoa Kỳ, sức công phá chiến xa của nó như kim đâm bong bóng. Lúc bay đi phía sau đuôi đạn kéo theo một sợi kim loại, tựa dây đàn số 6 Guitare, nối liền với ống phóng (launcher). Dù công phá hữu hiệu nhưng nó cũng có yếu điểm là bay chậm, kêu xè xè, và sáng rực, dễ phát hiện. Khi nghe tiếng départ, thấy quả đạn lao tới lính thiết giáp phải rời khỏi xe, cách xa vài chục thước, bộ binh thì tản thưa, nằm xuống, nếu không, dù sắt thép cũng thành nước.
Vì một con cua đã bị nướng, Chi đoàn trưởng của
Chi đoàn M113 xin BCH Liên đoàn 1 BĐQ cho lệnh số còn lại bò vòng vòng gần khu
phố Đức Phổ. Ông viện lẽ loại hỏa tiễn đó, cho dù có gắn mắt thần hay không,
vẫn khắc tinh với gia đình ông. AT3 ra đời để tìm ăn cua nướng thôi, nó đớp gọn
không chừa một cái que. Nghe nói khiếp vậy, Trung tá Mũ Nâu Trần Kim Đại đâm ớn
lạnh, vội thúc Tiểu đoàn 21 BĐQ chuyển hướng, tiến thẳng ra ngọn đồi cao 25
thước, bên bờ biển, tóm cổ cho bằng được con quỷ sứ khắc tinh đang gáy ở đó.
Qua speaker PRC25 tôi nghe Thiếu tá Quách Thưởng
ban lệnh xuống các đại đội mà từ sáng giờ như một bầy hổ đói cứ nhe răng chờ
mồi:
- Tất cả, phương giác 1800, Đại đội 2 bên trái, 3
bên phải, dàn ngang đi trước, Đại đội 4 một hàng dọc giữ hông phải của BCH Tiểu
đoàn, Đại đội 1 bảo vệ phía sau.
Các đại đội Biệt Động vội khai triển đội hình.
Một lát sau súng đủ loại nổ vang, hai đơn vị đầu tràn vào con xóm xơ xác dưới
những hàng dừa ven biển. Địch quân không có phản ứng nào đáng kể, các tổ báo
động của chúng bắn lách tách chỉ để chém vè. Thiếu tá Quách Thưởng cho tất cả
dừng bố trí, riêng Đại đội 2 BĐQ của Trung úy Dương Xuân chuẩn bị tiến đánh
ngọn đồi 25, có giàn AT3, như đã ấn định. Mục tiêu này cây cối xanh um, lốc
chốc nhiều tảng đá to, nằm đơn độc nơi chớn nước biển và cách ly bìa xóm một
bãi cát rộng vài trăm thước.
Vừa dứt loạt pháo binh 105ly phủ đầu xuống 25,
Trung úy Dương Xuân dàn quân xông ra. Địch còn thừa sức, phản ứng dữ dội, AK,
B40, cả Thượng liên Đông Đức, tác xạ chống trả liên tục, lính Đại đội 2 khựng
lại, không thể tắp vào được.
Nghe tiếng súng tôi đoán đối phương không nhiều,
chỉ vài chục tên là cùng, nhưng hầm hố chiến đấu của chúng ắt phải kiên cố và nhiều
tảng đá to che chắn, nên đại bác dập không xuể. Lại nữa, đạn rót xuống triền
đồi tây bắc, là mặt đối diện nòng súng, địch chạy qua phía đông nam núp an
toàn. Địa thế như vậy Cộng quân mới sử dụng làm chốt, đặt ống phóng hỏa tiễn
AT3 hầu chế ngự quanh đất liền lẫn ngoài biển, ngừa tàu chiến đổ bộ. Tuy nhiên,
địch đã không ngờ chính Biệt Động lại tạt ngang từ hướng tây sang đông đến vây
đánh chúng, để trừ khử giàn phóng AT3 lợi hại ấy. Sớm muộn gì cứ điểm cô lập
này cũng bị diệt.
Trung úy Dương Xuân tấn công đợt hai, cũng thất
bại như lần trước, không chiếm được, thương vong lại càng cao thêm. Thiếu tá
Thưởng cự nhoi, Xuân im lặng, cố xoay trở tìm thế đánh khác.
Buổi trưa nắng chang chang, đoạn đường xung phong
phải băng qua bãi cát trống, chỉ lơ thơ đôi ba vạt cây loại bò sát, lá giống lá
trầu, người miền Trung gọi là cây trường sinh. Mảnh đất lại bằng phẳng, như tấm
gương phản chiếu trắng xóa, nhìn hoa cả mắt. Tôi lo ngại cho đơn vị của Xuân,
khó bề tiến sát. Nếu không xin ném bom Napalm đốt cháy hoặc chờ màn đêm xuống
rồi đột kích mục tiêu, mà cứ tiếp tục húc càng kiểu đó thì Đại đội 2 chỉ từ
chết tới bị thương thôi.
Qua buổi chiều trời vẫn còn nóng bỏng, Đại đội
tôi lủi thủi theo sau yểm trợ, tải hàng chục xác chết và bị thương cùng ba lô,
súng đạn dư thừa của đơn vị lâm trận, ra quốc lộ để xe chở về hậu cứ. Làm cái
công việc chẳng mấy thú vị, còn cực nhọc, phần chưa ăn trưa đói mệt, bọn lính
than như bộng:
- Khổ quá, Đại Bàng ơi!…
Tôi an ủi:
- Ráng lên rồi tà tà nghỉ!
Một tốp khác vừa đi vừa dùng dằng:
- Đại Bàng, sao mấy đại đội kia không làm gì hết?
Tôi cầm thanh tre nhấp nhấp trong không khí và
hầm hừ:
- Này, tao bảo cố gắng, nghe chưa? Chọc điên tao
xin tình nguyện kéo vô đánh mục tiêu cho tụi bay chết luôn!
Tất cả im lặng, biết phận mình “bồng em khỏi xay
lúa”, lật đật kẻ khiêng người cõng các thân xác máu me nhầy nhụa đi một mạch,
trông tội nghiệp. Trong lúc đó Thiếu tá Thưởng cứ cằn nhằn Trung úy Xuân chẳng
làm ăn gì được. Tôi mở sang tần số Bộ Chỉ Huy Liên đoàn 1 BĐQ, cũng nghe giọng
Trung tá Trần Kim Đại trách móc Tiểu đoàn 21. Ông trách nhẹ chứ không la hét
bừa bãi, cao ngạo, như Lê Phú Đào, tiền nhiệm, đại loại đơn vị mới xuất quân
đầu năm đã bị một cái chốt nhỏ cầm chân mà chẳng gỡ được. Sau cùng ông hỏi:
- Trùng Dương tính sao?
Giọng Thiếu tá Thưởng hơi bực tức:
- Giờ đã xế chiều rồi, tôi đóng quân ở đây, chờ
tối tôi cho đứa con khác đột kích cái mục tiêu đó.
Nghe qua cuộc vô tuyến điện đàm không mấy vui,
tôi chán nản tắt máy, lên BCH lớn họp theo lệnh Đại úy Nguyễn văn Do Tiểu đoàn
phó. Vừa thấy đủ bốn đại đội trưởng, Vân, Nai, Xuân và Giảng, Quách Thưởng nói:
- Tiểu đoàn bao quanh con xóm này. Mỗi đại đội
đặt phía trước 3 tiền đồn. Đại úy Do sẽ chỉ định vị trí. Đại đội của Nai thì
chuẩn bị thành phần đột kích mục tiêu 12 giờ đêm nay.
Trời đã tối, các phòng tuyến đào hố cá nhân như
thường lệ. Tất cả nằm đất, bị cấm căng poncho treo võng, đốt lửa. Pháo binh lai
rai rót từng quả xuống mục tiêu 25 để giàn phóng hỏa tiễn AT3 khỏi ngóc đầu và
cứ khoảng vài mươi phút, một loạt đạn 105ly của ta từ núi Dâu bắn quấy rối các
điểm ngoài vị trí Biệt Động Quân. Mọi người chờ đợi Đại đội 4 hành sự.
Rồi một trái signal trắng thụt lên, báo hiệu 2
trung đội đột kích đã sát mục tiêu. Tiếp theo, lựu đạn M26 và M72 nổ liên tục
ngay sườn tây bắc cụm núi 25. Các khẩu đại liên từ BCH Đại đội 4 bắn rẻ quạt
ngang triền tới đỉnh. Mấy cái chốt địch trong các xóm phía tây nam vội tỉa AK,
thượng liên đến chân đồi cứu bồ của chúng. Dưới ánh hỏa châu rực sáng, tôi thấy
rõ lính tràn lên thanh toán từng hốc đá, khu đồi 25 tóe lửa. Một lát, tiếng
súng ngưng, chỉ còn có tiếng kêu ơi ới của quân Biệt Động gọi nhau lục soát.
Đại đội 4 báo sơ khởi giết 10 tên, thu 8 súng cá nhân cùng cộng đồng và nhiều
chất nổ. Riêng giàn launcher AT3 không tìm thấy, địch đã vác chạy hay đã bể
nát. Phía bạn bị thương hai người.
Mới đầu năm Đại đội 4 “khai trương” làm ăn khá.
Thiếu tá Quách Thưởng đắc ý cười luôn miệng. Đại úy Đỗ văn Nai là một trong các
sĩ quan trẻ của Tiểu đoàn, đẹp trai, tính tình dễ thương, chỉ huy rất vững
chắc. Vừa tốt nghiệp khóa 24 Thủ Đức, Nai về đơn vị gặp biến cố Tết Mậu Thân,
là giai đoạn đầu thử thách chức năng trung đội trưởng của vị sĩ quan mặt búng
ra sữa này. Làm đại đội phó Nai cũng xuất sắc, đoạt khá nhiều huy chương, đa số
ngôi sao vàng và nhành dương liễu. Năm 1971, Nai mới lên làm đại đội trưởng thì
Tiểu đoàn lại tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào, trực thăng vận đổ ào
xuống một thung lũng kế thượng lưu sông Sésamou, cực bắc Tchépone, Savannakhet.
Từ đó, lại chính Đỗ văn Nai tiên phong tiến chiếm ngọn núi cao 300 thước phía
tây, để toàn bô. Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân lên trấn thủ, làm nhiệm vụ án ngữ,
cũng là căn cứ đầu tiên của Quân Lực VNCH trên lãnh thô? Vương Quốc Ai Lao. Nai
còn bung rộng Đại đội ra xa, dọc theo một đoạn đường mòn Hồ Chí Minh, nơi cộc số
DC16, đốt cháy nhiều kho đạn phòng không 37ly và đại bác 75ly không giật của
quân Bắc Việt dự trữ hầu xâm lược miền Nam.
Kế tiếp, những tháng năm quê hương đổ lửa, người
hùng Đỗ văn Nai, dù đã hai lần bị thương, vẫn luôn luôn sát cánh với đơn vị,
trải qua bao gian khổ, khi vui cũng như lúc buồn…
Sáng nay tôi dậy sớm hơn thường lệ, đang đứng trò
chuyện với Trung đội 2 ngoài tuyến, thì Hạ sĩ Nguyễn Hiệp truyền tin tay xách
cái máy PRC25 từ trong lều BCH hơ hải chạy ra:
- Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng cần gặp Đại Bàng.
Tôi nắm ống liên hợp:
- Nghe Trùng Dương!
Giọng Thưởng dồn dập, nói như muốn khóc:
- Mi làm cái chi tao chờ máy lâu vậy? Hộ tống tao
ra Đức Phổ gấp! Thằng Ẩn chết rồi!
Vì thói quen bạn bè, từ thuở hai đứa còn đi học
chung lớp, chung trường, nên Thưởng hay xưng hô thân mật với tôi: “tao, mi”.
Nhưng, tôi vẫn giữ khoảng cách, trước mắt Thưởng là cấp chỉ huy của tôi trong
đơn vị này.
Nghe Thưởng nói, tôi bàng hoàng:
- Đáp nhận! Đại đội sẽ mở đường và an ninh lộ
trình, còn tôi sẽ đích thân vào đón Trùng Dương.
Tôi bảo hai vị trung sĩ Hơn và Thuận:
- Đại đội nhổ lều, mang ba lô, súng đạn di chuyển
gấp ra hướng quốc lộ. Trung đội 2 hàng ngang đi trước, Trung đội 1 hàng dọc
sau, bên trái, vọt lẹ! Riêng toán Thám Báo theo tôi!
Thưởng và hai người cận vệ phía biển tới. Gặp tôi
mặt ông nhăn nhó, đôi mắt đỏ hoe:
- Mở đường chưa, Vân?
- Dạ rồi! Ẩn chết lúc nào, Thiếu tá?
- Hậu cứ báo sáng nay.
Tôi quay qua lấy cái ống liên hợp máy PRC25 nơi
tay Binh nhất Nguyễn văn Văn truyền tin đứng bên cạnh, để gọi dặn thêm các trung
đội:
- Anh Hơn, khi gần tới quốc lộ dừng lại, rồi cùng
Trung đội của Thuận rải dài theo lộ trình vừa mới qua, giữ an ninh.
- Đáp nhận! Trình Đại Bàng có chiếc thiết vận xa
chạy về phía Đại Bàng.
- Ừ, tôi có nghe tiếng máy nó.
Thiếu tá Thưởng nói:
- Thiết giáp vô đón tao đó, cho Thám Báo chặn
lại.
Chiếc M113 dừng trước mặt một trăm thước, các
khẩu đại liên trên xe chĩa thẳng ba hướng.
Thưởng lướt tới, trèo lên rồi nói:
- Vân và hai đứa làm máy lên đây đi thêm một
khúc.
Viên Thiếu úy Mũ Đen đưa tay chào Thưởng:
- Nghe Tiểu đoàn 21 BĐQ đập nát được giàn phóng
AT3, tụi này mừng quá, Thiếu tá!
- Ừ, hồi sáng lính lục soát thấy nó hư , đạn thì
cháy nổ hết tối hôm quạ
Tôi xen vào:
- Giờ đang có chuyện buồn, xin Thiếu úy cho quay
đầu xe chạy mau!
Chiếc M113 giật trườn tới xoáy đất. Thưởng than
thở:
- Lạ quá, Vân! Mấy bữa Ẩn đã khỏe, nó lấy bộ bài
ra binh xập xám một mình chơi đây…
- Tôi chẳng biết sao, xin chia buồn cùng anh.
Điều tôi lấy làm lạ, lần trước khi nghe Ẩn bị thương, tôi cùng anh vội lên một
chiếc M113 đi cứu. Nay nhận tin Ẩn chết, hai đứa lại ngồi chung trên thiết giáp
cùng loại, tôi tiễn anh về. Hẳn có cái gì tương quan đến sự việc, khó hiểu!…
Chắc Thưởng không nghe mấy lời tôi nói, âm thanh
bị lấn át bởi tiếng xe gầm gừ mỗi lần hai sợi xích bươn qua từng thế đất gồ ghề
gợn sóng. Vị Tiểu đoàn trưởng tài hoa mãi im lặng với nỗi buồn riêng, đôi mắt
nhìn tận nơi đâu, xa lắm, không phải dải Trường Sơn trước mặt đang đảo lộn…
Tôi nhớ ngày Trung úy Ẩn bị thương trong cuộc
hành quân phía tây Ba Gia, tỉnh Quảng Ngãi. Tiểu đoàn 21 lội dưới đồng bằng,
riêng Đại đội 2 của Ẩn thì đi trên cao, hết ngọn đồi này sang đỉnh núi khác cả
tháng. Rồi một hôm, trung đội đầu bỗng bị địch quân chặn đánh, theo thói quen
và tính can đảm, Đại đội trưởng Quách Ẩn phóng tới để trực tiếp điều động, thì
đạp phải một trái mìn, loại biến chế bằng quả đại bác 105ly.
Nghe tiếng nổ long trời, các đơn vị dưới thấp đều
thấy một cột khói đen từ thế yên ngựa cuồn cuộn tuôn lên. Kế đó, các speaker
PRC25 phát ra những lời báo cáo sự việc vừa xảy tới.
Biết ngay Đại đội 2 như rắn mất đầu, không người
chỉ huy, phần tê điếng trước tin người em ruột ngộ nạn, Thưởng hoảng hốt, giọng
dồn dập, kêu tôi đến nỗi không kịp trả lời:
- Việt Quốc! Việt Quốc! Lên cứu Ẩn mau đi, nó bị
thương rồi! Việt Quốc!…
Lúc ấy Đại đội tôi đang băng ngang một cánh đồng
ruộng nước, nhằm mục đích vào lục soát một con xóm đìu hiu ở phía nam núi Tròn.
Lệnh xuống, lại được biết người bị thương là vị cựu Đại đội trưởng của tôi đã
một thời chung lưng chiến đấu, tức tốc tôi cho đơn vị đổi hướng, đâm thẳng vào
phía núi, nơi cột khói còn mù mịt trên cao. Nhưng vì chân đồi chập chùng, cây
cối rậm rạp, lính di chuyển quá chậm. Thấy vậy, Thưởng nóng lòng lấy một chiếc
thiết vận xa M113 của chi đoàn đang tùng thiết, rượt theo:
- Vân, lên đây!… Lên đây!…
Tôi và hai người làm máy leo lên. Rồi vẫn trở
ngại bởi các tảng đá lớn chằng chịt, xe chạy còn thua đi bộ. Thưởng và tôi lại
nhảy xuống, dẫn Đại đội luồn lách trèo theo khe núi. Đến nơi thấy Ẩn bị thương
nặng. Trực thăng được gọi kịp thời đưa Ẩn về bệnh viện.
Nay Trung úy Ẩn đã chết, cả Tiểu đoàn thương
tiếc. Ẩn có đức tính đáng qúy, người đời e khó bắt chước. Phục vụ trong cùng
đơn vị, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của anh ruột là Tiểu đoàn trưởng Quách
Thưởng mà Ẩn không bao giờ dựa hơi làm càn. Vì công vụ anh ra lệnh, gian nguy
mấy người em vẫn thi hành như mọi thuộc cấp, không thắc mắc hay về “mét” mẹ để
được bao che. Ẩn luôn trọng sự công bằng và quá yêu đời lính cho đến ngày hy
sinh.
Một lần, vào mấy ngày tỉnh Quảng Trị sắp thất thủ
mùa hè 1972, mặt trận tây nam La Vang trở nên ác liệt, Tiểu đoàn 21 BĐQ bi. Sư
đoàn 304 CSBV vây đánh te tua. Biết phòng tuyến Đại đội 2 mình thế nào cũng vỡ,
Trung úy Ẩn chạy vào BCH Tiểu đoàn kêu lớn:
- Anh Thưởng! Lính chết nhiều rồi, cho rút lui
ngay! Việt Cộng đông lắm!…
Nghe tiếng Ẩn nói như muốn chủ bại, Thiếu tá
Thưởng tức giận, từ dưới hố cá nhân nhảy vội lên rồi vừa đưa tay chỉ ngay mặt
người em vừa quát to:
- Mi rút mi chết với tao! Ra chỉ huy, mau!
Ẩn lật đật quay lui, có vẻ khiếp sợ ông anh hơn
địch. Sau đó, Cộng quân lăn xả vào như kiến, dù chúng đã chết hết lớp này sang
lớp khác. Đại đội tôi kế bên trái Ẩn, cả hai tiếp tục chống trả. Lúc ấy đang
cận chiến, không thể dùng máy truyền tin để điều động kịp nữa, tôi cũng như Ẩn
chỉ còn hét lên và cùng lính vừa bắn vừa đốc lựu đạn kháng cự một cách tuyệt
vọng. Địch liền phối hợp hỏa lực, từ phía tây trút xuống một trận pháo phủ đầu,
bất kể quân của chúng vẫn còn nằm sát vị trí Biệt Động, rồi với chiến thuật
biển người cố hữu, địch xung phong, tràn ngập như nước vỡ bờ.
BCH Liên đoàn hay tin vội cho lệnh Tiểu đoàn rút
ngay về đồi 34, gần nhà thờ La Vang, nằm thủ để bảo toàn lực lượng.
Trong khi đó, các phòng tuyến chiến đấu ở mạn bắc
Quảng Trị đều tan vỡ. Các binh lính rã ngũ quá hỗn độn, chạy ào vào hướng Huế,
lôi cuốn toàn quân, toàn dân địa phương bỏ nhà, bỏ đơn vị triệt thoái khỏi tỉnh
địa đầu một cách rối loạn tạo ra lắm cảnh chết chóc không thể nào kể xiết, như
lá rụng mùa thu. Nơi khủng khiếp nhất, biết bao kẻ mất đầu, người lòi ruột nằm
ngổn ngang, chồng chất lên nhau trên xe dưới đất, là một đoạn đường ngắn vài
cây số của Quốc lộ 1, trước căn cứ BCH Chi Khu Mai Lĩnh, phía nam thành phố
tang thương ấy, mà về sau người ta gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”.
Đại Lộ Kinh Hoàng! Một cụm từ nghe rất kêu của
một nhà báo ngoại quốc viết theo quán tính. Nhưng mấy ai hiểu tại sao kinh
hoàng. Chắc họ thấy chết nhiều? Thôi, cứ hiểu đơn giản đó là một cõi chết, cõi
chết đặc biệt không có thú vật dự phần vì chung quanh đều đồng trống, chỉ dành
riêng cho người, từ thường dân, nam lẫn nữ, trẻ sơ sinh với kẻ già cả, đến đủ
mặt các quân binh chủng hùng mạnh nhất lúc bấy giờ…
Khi triệt thoái, người và xe chen chúc nhau vào
Huế. Địch thâm hiểm đẩy Đại đội C7 thuộc Sư đoàn 304 Cộng Sản BV, chiếm cầu Bến
Đá ở mạn nam thành phố Quảng Trị để chặn đường. Lúc ấy, quân số Tiểu đoàn 21
tuy sút giảm, nhưng khả năng chiến đấu và hệ thống chỉ huy còn vững chắc, vừa
từ La Vang về nằm thủ trong căn cứ Chi Khu Mai Lĩnh. Thấy đồng bào bị dồn đống
ngoài quốc lộ, Thiếu tá Thưởng vội kéo đơn vị ra, một mặt bảo tôi tức tốc dẫn
Đại đội tới đánh C7 để mở đường. Sau vài tiếng đồng hồ quần thảo địch quân tan
rã, chết còn 9 tên. Trước khi bỏ chạy, Thiếu úy Nguyễn văn Đường(3), Đại đội
trưởng C7, cho giật mìn sập cây cầu định mệnh Bến Đá. Tiếp theo, các khẩu đại
bác, 82 đến 130ly của Cộng quân đã áp sát tứ bề đua nhau rót đạn vào như mưa
bấc. Một rừng người đủ thành phần đang đụn lại dài hai cây số, họ gào thét,
giẫy giụa giữa biển lửa, lớp nát thây vì đạn pháo kẻ thù, lớp xẹp lép do các xe
GMC, Jeep, cùng các sợi xích thiết giáp của Quân Lực VNCH quay cuồng nghiền lên
để giành đường thoát thân. Bi thảm nhất, hàng ngàn thương bệnh nhân, từ các
bệnh viện thành phố Quảng Trị di tản, đang nằm ngất ngưởng trên các xe. Họ
không chết hết ngay tại chỗ, cũng tắt thở dần mòn sau khi bị bỏ lại bên kia cây
cầu đã gãy.
Dưới cơn mưa pháo dữ dội của địch quân, biết đồng
bào và đoàn quân bại trận thê thảm ấy không thể nào vượt qua được khúc sông sâu
đầy xác giặc, để ra khỏi “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi cố xin lệnh Thiếu tá Quách Thưởng
mở đường mới dẫn tất cả đâm thẳng ra hướng đông. Lúc băng qua cánh đồng ruộng
nước, Việt Cộng pháo theo, thây người rơi lả tả dưới sình lầy. Khi tới mé biển
tôi cho quẹo phải về nam. Vẫn chưa yên thân, lộ trình này lại bị đại bác Hải
Quân của ta ngoài khơi nã vào làm chết thêm một số nữa. Các quả đạn cực mạnh nổ
tung lên giữa nhiều đám người khiến quân với dân như cát với bụi. Thì ra ông
hạm trưởng nào đó đã không nắm vững tình hình ở đất liền, hoặc vì “tàu lắc lư
làm sao viết thư tình”, nên buồn bắn sảng để mai mốt về “cặp bến” kể em nghe
anh vừa chơi một trận hải chiến đầy. tưởng tượng trên sóng nước Trị Thiên.
Để tránh đạn của các ông hạm, Đại đội tiếp tục
dẫn đầu cả trăm ngàn quân lẫn dân ép vô trong, đi dọc theo quốc lộ số 1 cũ,
xuyên qua trung tâm quận Hải Lăng, rồi dừng lại bên bờ sông Mỹ Chánh. Lúc bấy
giờ đêm đã khuya. Sáng hôm sau, đoàn người thất điên bát đảo, dài lê thê mới
được đơn vi. Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ ở đây lần lượt cho qua cầu, rồi mạnh
ai nấy “tan hàng cố gắng”. Riêng Đại đội 1/21 BĐQ tôi khi về tới cửa Thượng Tứ
Huế thì có khác nào Đại đội C7 của Thiếu úy Nguyễn văn Đường Cộng Sản Bắc Việt
bị tôi đánh tan tác hôm qua tại cầu Bến Đá Quảng Trị cũng chỉ còn có chín người
bơ phờ, nhìn nhau mãi mới nhận ra thầy trò.
Những sự thật ấy chẳng nghe ai kể, ngay cả chuyện
Quách Ẩn, Quách Thưởng nào ai biết! Ai là ai? Là phường giá áo túi cơm, vinh
thân phì gia, sống trên xương máu của các chiến sĩ, còn đối xử tệ với binh
chủng anh hùng Biệt Động Quân.
Đa số các phóng viên, nhà báo quân đội cứ đi mây
về gió. Mỗi lần viết phóng sự chiến trường, họ hay đến các đại đơn vị hào
nhoáng và chỉ tường thuật cặn kẽ các trận nào thuộc binh chủng gà nhà thôi. Họ
tả nghe cũng khiếp, cơ mưu chiến thuật cùng tài điều quân khiển tướng thần sầu
quỉ khóc, còn hơn cả Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Chiếc M113 dừng lại bên lề đường còn mịt mùng bom
đạn, tôi và hai người lính mang máy vội rời khỏi xe, Thưởng tiếp tục vào khu
phố Đức Phổ để lên trực thăng về Đà Nẵng. Trước khi xe chạy, Thưởng nói vói
xuống:
- Vân à, Thiếu tá Hoàng Phổ Liên đoàn phó sẽ
xuống thay tao ít hôm, cố gắng giúp ổng. Mai táng Ẩn xong tao lên ngay!
Tôi im lặng, đưa tay chào từ giã vi. Tiểu đoàn
trưởng đang đứt từng đoạn ruột…
Nguồn : Trích từ cuốn Anh hùng bạt mạng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét