Trích từ cuốn hồi ký " Chỉ có một con đường " của Trung tướng Nguyễn Huy Chương
Đúng ngày 22/6/1970, đội hình sư đoàn bắt đầu hành quân, các bộ phận tiền trạm của các đơn vị đều có mặt để lo cho đơn vị của mình trên từng cung đoạn của con đường Trường Sơn vạn dặm. Tôi và sư trưởng Hoàng Anh Tuấn đi trước với đoàn tiền trạm, tiếp theo là đội hình trung đoàn 1, trung đoàn 31 và các đơn vị trực thuộc, xuất quân qua Đồng Làng ngược lên huyện Hiên, vượt sông Tranh. Đã vào mùa mưa những cơn mưa rừng như “cầm chỉnh đổ”, nước một số con sông trên dãy Trường Sơn có đoạn dâng cao, tiểu đoàn công binh sư đoàn được lệnh tổ chức đóng bè để đưa bộ đội vượt sông.
Chúng tôi phân công đồng chí Sư đoàn phó Nguyễn
Chơn, Bùi Tùng, phó chính ủy cùng đi sau đội hình để kiểm tra, chỉ đạo các đơn
vị hành quân đúng lộ trình và thời gian. Lúc ra đi súng ống lỉnh nghỉnh, mang
vác nặng nề, nhưng khi sư đoàn lên đến binh trạm 61 thì được lệnh bàn giao toàn
bộ vũ khí lớn gồm súng DKZ, trọng liên, đại liên, cao xạ và toàn bộ cơ số đạn
cho binh trạm, bộ đội chỉ mang 1/3 số lượng súng AK và CKC trang bị để sẵn sàng
chiến đấu trên đường hành quân. Từ Nậm Bạc trở ra các binh trạm phía bắc, bộ
đội được ăn no, đầy đủ cơm trắng, thịt hộp, bột trứng, đường sữa, lương khô,
bảo đảm cho bộ đội ăn thoải mái, không tính tiêu chuẩn nhưng không được để
thừa. Nói vui lúc này, “luận điểm” Chủ nghĩa xã hội là “làm việc tùy
sức, ăn tiêu tùy cần” lần đầu tiên xuất hiện trên con đường kháng chiến của
Trường Sơn vạn dặm và trong ý nghĩa của các chiến sĩ từ trong gian khổ thiếu
thốn bỗng dưng tận hưởng thoải mái.
Hơn một tháng hành quân, ngày đi đêm nghỉ. Đường Trường Sơn mưa ướt lầy lội, đèo cao, suối sâu vẫn không làm bước chân chiến sĩ của sư đoàn dừng lại. Các binh trạm lán trại không đủ, cán bộ chiến sĩ sư đoàn phải che tâng để tú mưa. Đường đi vất vả nhưng nhờ có ăn uống đầy đủ, sức khỏe bộ đội tăng dần. Những anh em đói kiệt ở chiến trường cũng khỏe ra. Sư đoàn không còn những người quá ốm yếu, bệnh sốt rét cũng giảm dần.
Đến giữa tháng 8/9170, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã đến địa phận tọa độ của Bộ Quốc phòng và Quân khu 5 chỉ định, ở phía bắc đường số 9 thuộc huyện Mường Phìn, tỉnh Khăm Muộn, Trung Lào.
Cuộc chiến tranh chống Pháp lần thứ nhất thắng lợi. Cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước lại khởi đầu và diễn ra trên con đường huyền thoại bằng cuộc hành quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” từ những năm 1959, 1960. Thật không ngờ, trong cuộc chiến đấu ác liệt và gian khổ ở miền Nam suốt những năm qua, nay tôi lại được trở lại con đường xưa, nơi xuất phát của cuộc hành quân, ví như cuộc “Nam tiến” lần thứ hai, lòng tôi hợt dạt dào với bao cảm xúc.
Đường số 9, con đường vui chiến thắng
Đường ta đi sim nở tím đối hoa
Lòng rộn ước mơ, chim reo hòa trong gió
Đường chiến công rộn rã khúc quân ca.
Hỡi cô bạn mến thương ở phía chân trời xa
Đường đánh Mĩ nhiều hoa lắm trái.
Vội vã đuổi thù anh chưa kịp hái
Hẹn chiến thắng về tặng em cả trời hoa…
Sư đoàn đứng chân ở địa điểm quy định trên hành lang chiến lược của Trung ương, có đủ điều kiện thuận lợi để tập trung củng cố và huấn luyện. Có lương thực ăn no, có quân phục mặc ấm, có những khu rừng măng bát ngát. Những năm qua sống, chiến đấu quần lộn với địch ở chiến trường đồng bằng Khu 5. chịu đói khổ, thiếu thốn, nay lên rừng sống giữa đại ngàn, mỗi người lính chúng tôi như thấy được sự ấm áp che chở những cánh rừng, đúng như lời thơ, của nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Đường Trường Sơn đang trong mùa chiến dịch, hối hả tấp nập dòng người ra, vào giữa hậu phương lớn với chiến trường miền Nam, chiến trường Nam Lào. Từng đoàn xe bám bùn đất, bụi đỏ chở đạn dược, lương thực, kéo pháo, tải thương. Các binh trạm, cung đường, nam nữ thanh niên xung phong hồ hỡi san lấp hố bom, mở đường, vận chuyển vũ khí. Từng đoàn cán bộ, bộ đội vai ba lô, tay gậy hăm hở như mong sớm được vào tuyến lửa, với miền Nam ruột thịt. Tôi đã thực sự sống những ngày ở đường Trường Sơn, nhưng không sao tưởng tượng và hình dung được sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng cách mạng. Thật vĩ đại và hào hùng biết bao!
Được lệnh cấp trên, Bộ Tư lệnh sư đoàn đã đến nơi tập kết, mở hội nghị để làm những vấn đề cơ bản và cụ thể về củng cố, xây dựng sư đoàn trong điều kiện đưa toàn bộ đội hình sư đoàn đi vào nề nếp chính trị, thực hiện việc xây dựng doanh trại. Rừng Lào bát ngát, cây cối còn nguyên sinh, phủ dày như một mái nhà xanh. Các đơn vị mượn cưa, dục, rựa, rìu của các binh trạm, để làm doanh trại. Lần đầu tiên giữ rừng già, những khả năng, năng khiếu của cán bộ chiến sĩ được tận dụng triệt để. Trong hai tuần lễ lao động, các đơn vị đã cơ bản hoàn thành công việc xây dựng những “căn nhà chiến tranh” nửa chìm nửa nổi để đề phòng máy bay địch đánh phá. Mỗi nhà đều có giao thông bên ngoài, đề phòng biệt kích địch bất ngờ tấn công và bộ đội có điều kiện chiến đấu. mặc dầu nhà dã chiến ở giữa rừng, nhưng các đơn vị vẫn bố trí thành từng dãy theo đội hình, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, có sạp bằng nứa để ngủ, tường vách được che phên kín đáo, có giá ba-lô giá súng được sắp đặt thuận lợi, và bàn ghế để hội họp sinh hoạt. Nhà ăn được làm giữa doanh trại. Từng đại đội, có cột cờ, sân bóng chuyền giàn hoa phong lan trông thật tiện nghi, sạch sẽ đẹp mắt.
Hơn một tháng hành quân, ngày đi đêm nghỉ. Đường Trường Sơn mưa ướt lầy lội, đèo cao, suối sâu vẫn không làm bước chân chiến sĩ của sư đoàn dừng lại. Các binh trạm lán trại không đủ, cán bộ chiến sĩ sư đoàn phải che tâng để tú mưa. Đường đi vất vả nhưng nhờ có ăn uống đầy đủ, sức khỏe bộ đội tăng dần. Những anh em đói kiệt ở chiến trường cũng khỏe ra. Sư đoàn không còn những người quá ốm yếu, bệnh sốt rét cũng giảm dần.
Đến giữa tháng 8/9170, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã đến địa phận tọa độ của Bộ Quốc phòng và Quân khu 5 chỉ định, ở phía bắc đường số 9 thuộc huyện Mường Phìn, tỉnh Khăm Muộn, Trung Lào.
Cuộc chiến tranh chống Pháp lần thứ nhất thắng lợi. Cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước lại khởi đầu và diễn ra trên con đường huyền thoại bằng cuộc hành quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” từ những năm 1959, 1960. Thật không ngờ, trong cuộc chiến đấu ác liệt và gian khổ ở miền Nam suốt những năm qua, nay tôi lại được trở lại con đường xưa, nơi xuất phát của cuộc hành quân, ví như cuộc “Nam tiến” lần thứ hai, lòng tôi hợt dạt dào với bao cảm xúc.
Đường số 9, con đường vui chiến thắng
Đường ta đi sim nở tím đối hoa
Lòng rộn ước mơ, chim reo hòa trong gió
Đường chiến công rộn rã khúc quân ca.
Hỡi cô bạn mến thương ở phía chân trời xa
Đường đánh Mĩ nhiều hoa lắm trái.
Vội vã đuổi thù anh chưa kịp hái
Hẹn chiến thắng về tặng em cả trời hoa…
Sư đoàn đứng chân ở địa điểm quy định trên hành lang chiến lược của Trung ương, có đủ điều kiện thuận lợi để tập trung củng cố và huấn luyện. Có lương thực ăn no, có quân phục mặc ấm, có những khu rừng măng bát ngát. Những năm qua sống, chiến đấu quần lộn với địch ở chiến trường đồng bằng Khu 5. chịu đói khổ, thiếu thốn, nay lên rừng sống giữa đại ngàn, mỗi người lính chúng tôi như thấy được sự ấm áp che chở những cánh rừng, đúng như lời thơ, của nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Đường Trường Sơn đang trong mùa chiến dịch, hối hả tấp nập dòng người ra, vào giữa hậu phương lớn với chiến trường miền Nam, chiến trường Nam Lào. Từng đoàn xe bám bùn đất, bụi đỏ chở đạn dược, lương thực, kéo pháo, tải thương. Các binh trạm, cung đường, nam nữ thanh niên xung phong hồ hỡi san lấp hố bom, mở đường, vận chuyển vũ khí. Từng đoàn cán bộ, bộ đội vai ba lô, tay gậy hăm hở như mong sớm được vào tuyến lửa, với miền Nam ruột thịt. Tôi đã thực sự sống những ngày ở đường Trường Sơn, nhưng không sao tưởng tượng và hình dung được sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng cách mạng. Thật vĩ đại và hào hùng biết bao!
Được lệnh cấp trên, Bộ Tư lệnh sư đoàn đã đến nơi tập kết, mở hội nghị để làm những vấn đề cơ bản và cụ thể về củng cố, xây dựng sư đoàn trong điều kiện đưa toàn bộ đội hình sư đoàn đi vào nề nếp chính trị, thực hiện việc xây dựng doanh trại. Rừng Lào bát ngát, cây cối còn nguyên sinh, phủ dày như một mái nhà xanh. Các đơn vị mượn cưa, dục, rựa, rìu của các binh trạm, để làm doanh trại. Lần đầu tiên giữ rừng già, những khả năng, năng khiếu của cán bộ chiến sĩ được tận dụng triệt để. Trong hai tuần lễ lao động, các đơn vị đã cơ bản hoàn thành công việc xây dựng những “căn nhà chiến tranh” nửa chìm nửa nổi để đề phòng máy bay địch đánh phá. Mỗi nhà đều có giao thông bên ngoài, đề phòng biệt kích địch bất ngờ tấn công và bộ đội có điều kiện chiến đấu. mặc dầu nhà dã chiến ở giữa rừng, nhưng các đơn vị vẫn bố trí thành từng dãy theo đội hình, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, có sạp bằng nứa để ngủ, tường vách được che phên kín đáo, có giá ba-lô giá súng được sắp đặt thuận lợi, và bàn ghế để hội họp sinh hoạt. Nhà ăn được làm giữa doanh trại. Từng đại đội, có cột cờ, sân bóng chuyền giàn hoa phong lan trông thật tiện nghi, sạch sẽ đẹp mắt.
Sư đoàn được nhận quân trang quân dụng, trang bị mới. Lần
đầu tiên cả đội hình sư đoàn động phục màu xanh Tô Châu, doanh trại gọn gàng,
ngăn nắp, giá ba-lô, chăn màn đều mới, được sắp xếp thẳng tắp theo đúng điều
lệnh quân đội. Căn cứ theo thực tiễn chiến trường mà quy định chế độ hội họp,
học tập, công tác trên cơ sở điều lệnh quân đội thống nhất toàn sư đoàn, như:
Thực hiện chế độ chào cờ buổi sáng thứ hai hàng tuần, bộ đội được nghỉ chủ nhất mỗi tuần ở từng đại đội tổ chức độc báo và sinh hoạt buổi tối học hát “Tiến quân ca” và bài “Giải phóng miền Nam”, Báo Quân đội nhân dân, Văn nghệ quân đội và một số tuần báo khác được xuất bản trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cũng như các đoàn văn công phim ảnh đến phục vụ, được đọc, xem hằng tuần. Có thể nói, từ khi thành lập sư đoàn cho đến lúc này mới có được nếp sinh hoạt đúng nghĩa của một đơn vị quân đội chính quy. Sư đoàn đóng quân gần hậu phương lớn miền Bắc, nên có điều kiện tập trung củng cố xây dựng đơn vị. Tuy nhiên cũng có những cá nhân, trường hợp, được ăn no, mặc ấm, có đủ thuốc men chữa bệnh, có đủ báo chí để đọc, biết được tin tức trong và ngoài nước ấy lại nảy sinh những vấn đề về tư tưởng. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn đã nhìn thấy trước tình hình và đã có ngay hướng khắc phục. Ví dụ như một bộ phận cán bộ chiến sĩ quê ở miền Nam vui mừng được học tập rèn luyện sinh hoạt đầy đủ, nhưng lại có suy nghĩ bao giờ thì được trở về lại chiến trường miền Nam. Đôi lúc có những chiến sĩ nhớ quê hương, lo lắng cho đồng bào, người thân bị giặc bắt tù đày, hoặc khủng bố tra tấn trong các ấp chiến lược, liệu khi họ trở về, những người thân có còn sống không, gặp lại nhau không? Còn các đồng chí cán bộ chiến sĩ quê ở miền Bắc đã vào Nam chiến đấu lâu ngày, nay ra đến đây lại có nguyện vọng được về thăm gia đình. Nguyện vọng đó của anh em thật chính đáng, nhưng yêu cầu nhiệm vụ của sư đoàn lại cấp bách, chưa thể đáp ứng được. Vì thế, một số đồng chí phát sinh tư tưởng chán nản, mệt mỏi, giản chiến, trễ nải trong việc học tập, rèn luyện. Sau một tuần lễ sư đoàn bám sát từng đơn vị, Đảng ủy sư đoàn họp, đánh giá, phân tích, tổng hợp tình hình và tổ chức đợt sinh hoạt tư tưởng trong toàn Đảng bộ sư đoàn, đấu tranh nghiêm túc và thẳng thắn, chân thành, góp ý xây dựng những biểu hiện không phù hợp làm hạn chế ý chí, sức mạnh của tập thể sư đoàn trong lúc cả tập thể đang tập trung huấn luyện sẵn sàng chiến đấu lập công.
Sau đợt sinh hoạt, toàn sư đoàn đã ổn định, mặt tốt được phá huy. Khí thế thi đua học tập tiến bộ rõ rệt. Sinh hoạt từng đơn vị đi vào nề nếp.
Giữa tháng 9/1970, toàn sư đoàn được bổ sung quân số từ miền Bắc chuyển vào. Anh em quê ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Nam Ninh; hầu hết lớp chiến sĩ này đã tốt nghiệp phổ thông cấp 3, có một số là sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, tình nguyện nhập ngũ đi vào Nam đánh giặc, anh em được học tập 3 tháng quân sự, chính trị trước khi đi vào chiến trường. Cán bộ lãnh đạo cấp sư đoàn và trung đoàn vui mừng, phấn khởi vì lần đầu tiên biên chế của sư đoàn đầy quân, mỗi tiểu đoàn có 500 quân, trung đoàn có 2.000 quân cấp trực thuộc cũng đủ biên chế. Trang bị vũ khí chuẩn bị chiến đấu được cấp mới hoán toàn. Trong đó những loại binh khí kĩ thuật hiện đại, gọn nhẹ, phù hợp với điều kiện chiến trường.
Thời gian này, sư đoàn được sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Cục chính trị và Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục hậu cần quân đội Nhân dân Việt Nam. Các cơ quan cấp trên cử cán bộ xuống sư đoàn vạch kế hoạch giáo dục chính trị, tập huấn quân sự và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho tất cả các bộ phận học tập tình hình, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ của sư đoàn trong giai đoạn mới của cách mạng. Đảng ủy sư đoàn đồng thời triển khai cuộc vận động do Ban bí thư Trung ương Đảng phát động: “Nâng cao chất lượng chiến đấu của sư đoàn kết nạp đảng viên mới - Lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Qua đại hội các cấp trong sư đoàn, đảng viên, đoàn viên đều hoàn toàn nhất trí với phương hướng: “Xây dựng sư đoàn chính quy tinh nhuệ, tác chiến tập trung”.
Sau đợt sinh hoạt chính trị, Bộ Tư lệnh sư đoàn nhận được điện của Bộ Quốc phòng, triệu tập cán bộ của sư đoàn 2 ra dự tập huấn chiến dịch do Bộ Tổng tham mưu chủ trì. Lớp học được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trực tiếp khai mạc và giảng bài. Đại tướng nêu ý rõ tình hình, nhiệm vụ của cả nước trong giai đoạn sắp đến, tình hình địch ta ở miền Nam, yêu cầu của quân đội ta ở cả hai miền sẵn sàng chiến đấu cao, sắp đến tham gia những chiến dịch đánh hợp đồng binh chủng, cùng một lúc có nhiều sư đoàn tham gia trên một mặt trận, có binh khí kĩ thuật hiện đại trong đội hình lớn của binh chủng hợp thành. Yêu cầu nhiệm vụ sắp tới của quân đội ta là đánh to, thắng lớn, diệt gọn từng trung đoàn, chiến đoàn, sư đoàn của địch, phải đánh thắng tất cả mọi đối tượng, sắc lính của địch, phải tấn công giỏi, phản công giỏi, phòng ngự kiên cường. Đó là yêu cầu mới. Lớp tập huấn này, sư đoàn 2 cử đồng chí Nguyễn Chơn, sư đoàn phó, tôi là chính ủy sư đoàn, Dương Bá Lợi, tham mưu trưởng, Nguyễn Thí, tham mưu phó sư đoàn, Nguyễn Lĩnh, Phạm Trọng Hoàn, phòng hậu cần của sư đoàn, Nguyễn Tá, chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Văn Huyên, phó chủ nhiệm chính trị sư đoàn, 3 trung đoàn trưởng và 3 chính ủy trung đoàn cùng đi dự.
Sau 15 ngày tập huấn, chúng tôi lên đường trở lại chiến trường. Một số đồng chí bị đau dạ dày, sốt rét chưa cắt cơn, nhưng không ai xin ở lại điều trị. Mọi người đều vui mừng phấn khởi, vì được tiếp thu tư tưởng mới trong tác chiến, thấy nhiệm vụ của quân đội rất đặc biệt và nặng nề trong mùa xuân 1971 sắp đến.
Thực hiện chế độ chào cờ buổi sáng thứ hai hàng tuần, bộ đội được nghỉ chủ nhất mỗi tuần ở từng đại đội tổ chức độc báo và sinh hoạt buổi tối học hát “Tiến quân ca” và bài “Giải phóng miền Nam”, Báo Quân đội nhân dân, Văn nghệ quân đội và một số tuần báo khác được xuất bản trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cũng như các đoàn văn công phim ảnh đến phục vụ, được đọc, xem hằng tuần. Có thể nói, từ khi thành lập sư đoàn cho đến lúc này mới có được nếp sinh hoạt đúng nghĩa của một đơn vị quân đội chính quy. Sư đoàn đóng quân gần hậu phương lớn miền Bắc, nên có điều kiện tập trung củng cố xây dựng đơn vị. Tuy nhiên cũng có những cá nhân, trường hợp, được ăn no, mặc ấm, có đủ thuốc men chữa bệnh, có đủ báo chí để đọc, biết được tin tức trong và ngoài nước ấy lại nảy sinh những vấn đề về tư tưởng. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn đã nhìn thấy trước tình hình và đã có ngay hướng khắc phục. Ví dụ như một bộ phận cán bộ chiến sĩ quê ở miền Nam vui mừng được học tập rèn luyện sinh hoạt đầy đủ, nhưng lại có suy nghĩ bao giờ thì được trở về lại chiến trường miền Nam. Đôi lúc có những chiến sĩ nhớ quê hương, lo lắng cho đồng bào, người thân bị giặc bắt tù đày, hoặc khủng bố tra tấn trong các ấp chiến lược, liệu khi họ trở về, những người thân có còn sống không, gặp lại nhau không? Còn các đồng chí cán bộ chiến sĩ quê ở miền Bắc đã vào Nam chiến đấu lâu ngày, nay ra đến đây lại có nguyện vọng được về thăm gia đình. Nguyện vọng đó của anh em thật chính đáng, nhưng yêu cầu nhiệm vụ của sư đoàn lại cấp bách, chưa thể đáp ứng được. Vì thế, một số đồng chí phát sinh tư tưởng chán nản, mệt mỏi, giản chiến, trễ nải trong việc học tập, rèn luyện. Sau một tuần lễ sư đoàn bám sát từng đơn vị, Đảng ủy sư đoàn họp, đánh giá, phân tích, tổng hợp tình hình và tổ chức đợt sinh hoạt tư tưởng trong toàn Đảng bộ sư đoàn, đấu tranh nghiêm túc và thẳng thắn, chân thành, góp ý xây dựng những biểu hiện không phù hợp làm hạn chế ý chí, sức mạnh của tập thể sư đoàn trong lúc cả tập thể đang tập trung huấn luyện sẵn sàng chiến đấu lập công.
Sau đợt sinh hoạt, toàn sư đoàn đã ổn định, mặt tốt được phá huy. Khí thế thi đua học tập tiến bộ rõ rệt. Sinh hoạt từng đơn vị đi vào nề nếp.
Giữa tháng 9/1970, toàn sư đoàn được bổ sung quân số từ miền Bắc chuyển vào. Anh em quê ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Nam Ninh; hầu hết lớp chiến sĩ này đã tốt nghiệp phổ thông cấp 3, có một số là sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, tình nguyện nhập ngũ đi vào Nam đánh giặc, anh em được học tập 3 tháng quân sự, chính trị trước khi đi vào chiến trường. Cán bộ lãnh đạo cấp sư đoàn và trung đoàn vui mừng, phấn khởi vì lần đầu tiên biên chế của sư đoàn đầy quân, mỗi tiểu đoàn có 500 quân, trung đoàn có 2.000 quân cấp trực thuộc cũng đủ biên chế. Trang bị vũ khí chuẩn bị chiến đấu được cấp mới hoán toàn. Trong đó những loại binh khí kĩ thuật hiện đại, gọn nhẹ, phù hợp với điều kiện chiến trường.
Thời gian này, sư đoàn được sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Cục chính trị và Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục hậu cần quân đội Nhân dân Việt Nam. Các cơ quan cấp trên cử cán bộ xuống sư đoàn vạch kế hoạch giáo dục chính trị, tập huấn quân sự và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho tất cả các bộ phận học tập tình hình, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ của sư đoàn trong giai đoạn mới của cách mạng. Đảng ủy sư đoàn đồng thời triển khai cuộc vận động do Ban bí thư Trung ương Đảng phát động: “Nâng cao chất lượng chiến đấu của sư đoàn kết nạp đảng viên mới - Lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Qua đại hội các cấp trong sư đoàn, đảng viên, đoàn viên đều hoàn toàn nhất trí với phương hướng: “Xây dựng sư đoàn chính quy tinh nhuệ, tác chiến tập trung”.
Sau đợt sinh hoạt chính trị, Bộ Tư lệnh sư đoàn nhận được điện của Bộ Quốc phòng, triệu tập cán bộ của sư đoàn 2 ra dự tập huấn chiến dịch do Bộ Tổng tham mưu chủ trì. Lớp học được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trực tiếp khai mạc và giảng bài. Đại tướng nêu ý rõ tình hình, nhiệm vụ của cả nước trong giai đoạn sắp đến, tình hình địch ta ở miền Nam, yêu cầu của quân đội ta ở cả hai miền sẵn sàng chiến đấu cao, sắp đến tham gia những chiến dịch đánh hợp đồng binh chủng, cùng một lúc có nhiều sư đoàn tham gia trên một mặt trận, có binh khí kĩ thuật hiện đại trong đội hình lớn của binh chủng hợp thành. Yêu cầu nhiệm vụ sắp tới của quân đội ta là đánh to, thắng lớn, diệt gọn từng trung đoàn, chiến đoàn, sư đoàn của địch, phải đánh thắng tất cả mọi đối tượng, sắc lính của địch, phải tấn công giỏi, phản công giỏi, phòng ngự kiên cường. Đó là yêu cầu mới. Lớp tập huấn này, sư đoàn 2 cử đồng chí Nguyễn Chơn, sư đoàn phó, tôi là chính ủy sư đoàn, Dương Bá Lợi, tham mưu trưởng, Nguyễn Thí, tham mưu phó sư đoàn, Nguyễn Lĩnh, Phạm Trọng Hoàn, phòng hậu cần của sư đoàn, Nguyễn Tá, chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Văn Huyên, phó chủ nhiệm chính trị sư đoàn, 3 trung đoàn trưởng và 3 chính ủy trung đoàn cùng đi dự.
Sau 15 ngày tập huấn, chúng tôi lên đường trở lại chiến trường. Một số đồng chí bị đau dạ dày, sốt rét chưa cắt cơn, nhưng không ai xin ở lại điều trị. Mọi người đều vui mừng phấn khởi, vì được tiếp thu tư tưởng mới trong tác chiến, thấy nhiệm vụ của quân đội rất đặc biệt và nặng nề trong mùa xuân 1971 sắp đến.
Trong lúc tôi đang đi tập huấn ở hậu phương thì ở bản doanh
sư đoàn, đồng chí Sư đoàn rưởng Hoàng Anh Tuấn, đưa cán bộ từ đại đội trưởng đến
trung đoàn, sư đoàn và 3 cơ quan: Tham mưu, chính trị, hậu cần đi nghiên cứu
địa hình ở Bản Đông, Sê Pôn, Tha Mé… dọc đường 9, nghiên cứu các điểm cao, đồi
trục, khe suối, tuyến đường, tổ chức trinh sát về địa hình trên toàn bộ khu
chiến,cho cán bộ pháo binh đo đạc phần tử xạ kích của pháo, và chọn trận địa
cho các loại hỏa lực từ cối 81mm, pháo 105mm, pháo 155mm, pháo 130mm… chuẩn bị
sẵn các mục tiêu địch có thể đổ bộ, chuẩn bị trận địa cho pháo cao xạ 37mm,
57mm sẵn sàng đánh địch đổ bộ, cho lực lượng công binh của sư đoàn phối hợp với
công binh của Bộ, của đoàn 559, nghiên cứu các vị trí cầu phà và chuẩn bị làm
đường để kéo các loại pháo vào trận. Các bộ phận thông tin của đoàn 559, của sư
đoàn nghiên cứu các đường dây, các trạm triển khai mạng lưới thông tin trong
suốt hai tháng 10 và 11 năm 1970. Cán bộ sư đoàn, trung đoàn 141, trung đoàn 1
và các bộ phận trực thuộc đều triển khai nghiên cứu địa hình trong khu vực tác
chiến của đơn vị. Trong lúc đó, cán bộ cấp phó từ trung đoàn, xuống đại đội đều
trực tiếp chuẩn bị thao trường và huấn luyện cho toàn sư đoàn.
Riêng trung đoàn 31, sau đợt củng cố kết thúc đại hội Đảng, được lệnh của Quân khu hành quân vào Nậm Bạc, trở lại chiến trường Tây Nguyên. Ý định của Bộ lúc đó, nếu quân địch không đổ quân ra đường 9 - Nam Lào, thì sư đoàn sẽ trở về chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch tiến công phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch, giải phóng Đắc Tô, Tân Cảnh, bắc Kon Tum. Nếu địch đổ quân ra đường 9 - Nam Lào thì đội hình sư đoàn gồm có 3 cơ quan, 2 trung đoàn 141 và trung đoàn 1 ở lại trực tiếp đánh địch.
Do ý đồ chiến lược của Bộ và kế hoạch tác chiến chung trên chiến trường, nên Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo kế hoạch. Cán bộ cục tác chiến, cục huấn luyện, trường sĩ quan lục quân đã cử một đoàn cán bộ 45 đồng chí, trực tiếp vào huấn luyện tận cơ sở đại đội ở sư đoàn. Các đơn vị binh chủng như pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh, thông tin cũng cử cán bộ vào trực tiếp huấn luyện và cùng đi chuẩn bì chiến trường với cán bộ các cấp trong sư đoàn. Bộ Tư lệnh sư đoàn chia nhau bám sát từng trung đoàn, từng đơn vị trực thuộc, kiểm tra huấn luyện và đi chuẩn bị chiến trường rất cụ thể. Tình hình đơn vị học tập khẩn trương, khí thế phấn khởi sôi nổi diễn ra trên từng bài tập. Cán bộ chiến sĩ đều quyết tâm học giỏi, tập tốt để chiến đấu giành thắng lợi, hạn chế tổn thất.
Đoàn cán bộ chúng tôi đư dự tập huấn ở Hà Nội về, có phái viên của Bộ tăng cường cùng vào giúp sư đoàn mở lớp tập huấn ngay cho cán bộ từ đại đội trở lên trong thời gian 10 ngày. Nội dung tấp huấn theo chỉ đạo hướng dẫn của Bộ, và chúng tôi vận dụng và thực tế các chiến lệ của các trận đánh trong chiến dịch hè năm 1970 ở Quảng Nam, Quảng Ngãi cho cán bộ học tập, nêu cả ưu điểm, khuyết điểm, thành công và thiếu sót về kĩ thuật chiến thuật, cách đánh để cán bộ liên hệ học tập. Khí thế bộ đội lên cao, tư tưởng giản chiến, sợ gian khổ, ngại hi sinh được khắc phục. Nguyện vọng được về thăm quê miền Bắc cũng không ai đặt ra nữa, mà chỉ tập trung cho đợt học tập sẵn sàng chiến đấu.
Trong những ngày ở Mường Phìn, một niềm vui mớiđối với sư đoàn la đồng chí Võ Chí Công, - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy V đi đự hội nghị Trung ương ghé vào thăm sư đoàn, trực tiếp động viên từng đơn vị. Sau đó đồng chí Chu Huy Mân - Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu trên đường đi dự hội nghị cũng đã ghé thăm sư đoàn. Cả hai đồng chí thăm viếng, động viên, gặp trực tiếp cán bộ từ tiểu đoàn trở lên, thông báo tình hình trực tiếp chiến trường Khu 5 trong lúc sư đoàn xa Quân khu. Tình cảm sâu đậm của đồng chí lãnh đạo cùng chia ngọt xẻ bùi, chịu đựng gian khổ trên dải đất Khu 5 thân yêu đã làm vơi nỗi nhớ quê hương, nhớ đồng đội đang chiến đấu ở miền Nam, của cán bộ chiến sĩ sư đoàn. Đồng chí Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu biểu dương những thành tích sư đoàn đã đạt được trong thời gian hành quân đến địa điểm mới, đường đi phải vượt sông suối, núi đèo, đưa gọn được đội hình sư đoàn đi đến đích, triển khai xây dựng và huấn luyện đạt thành tích tốt. Hai đồng chí lãnh đạo nhắc nhở, dặn dò cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn không chủ quan thỏa mãn và phải nỗ lực vượt bậc trong xây dựng, thi đua với đơn vị bạn ở chiến trường mới, phát huy truyền thống của Khu 5 gian lao nhưng anh dũng. Tiếp thu những lời dặn dò, động viên của lãnh đạo cấp trên, Bộ Tư lệnh sư đoàn chúng tôi đã tổ chức học tập những huấn thị ấy cho cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn, tạo nên luồng sinh khí thi đua mới, quyết tâm mới xứng đáng với lòng tin của Đảng.
Đầu tháng 12/1980, công việc huấn luyện, xây dựng bộ đội đưa vào nề nếp chính quy khá tốt, việc chuẩn bị chiến tròng trong khu chiến được phân công cơ bản đã hoàn tất, nhưng đơn vị không dừng lại ở thành tích đạt được. Cùng thời gian này sư đoàn trưởng Hoàng Anh Tuấn được Bộ Tư lệnh Quân khu điều về làm Tham mưu trưởng Quân khu. Đồng chí Nguyễn Chơn, sư phó được cấp trên đề bạt làm sư trưởng. Sau khi trung đoàn 31 hành quân vào Nậm Bạc trở lại chiến trường Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh sư đoàn 2 nhận tiếp lệnh của Bộ Quốc phòng, lệnh cho sư đoàn 2 sắp xếp cử một đoàn cán bộ từ cấp tiểu đoàn trưởng trở lên đến sư đoàn, do đồng chí Nguyễn Chơn, sư trưởng, Bùi Tùng phó chính ủy sư đoàn dẫn đầu lên đường trở lại Tây Nguyên, chuẩn bì kế hoạch tác chiến, còn đại bộ phận sư đoàn tiếp tục huấn luyện chờ lệnh mới của Bộ.
Riêng trung đoàn 31, sau đợt củng cố kết thúc đại hội Đảng, được lệnh của Quân khu hành quân vào Nậm Bạc, trở lại chiến trường Tây Nguyên. Ý định của Bộ lúc đó, nếu quân địch không đổ quân ra đường 9 - Nam Lào, thì sư đoàn sẽ trở về chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch tiến công phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch, giải phóng Đắc Tô, Tân Cảnh, bắc Kon Tum. Nếu địch đổ quân ra đường 9 - Nam Lào thì đội hình sư đoàn gồm có 3 cơ quan, 2 trung đoàn 141 và trung đoàn 1 ở lại trực tiếp đánh địch.
Do ý đồ chiến lược của Bộ và kế hoạch tác chiến chung trên chiến trường, nên Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo kế hoạch. Cán bộ cục tác chiến, cục huấn luyện, trường sĩ quan lục quân đã cử một đoàn cán bộ 45 đồng chí, trực tiếp vào huấn luyện tận cơ sở đại đội ở sư đoàn. Các đơn vị binh chủng như pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh, thông tin cũng cử cán bộ vào trực tiếp huấn luyện và cùng đi chuẩn bì chiến trường với cán bộ các cấp trong sư đoàn. Bộ Tư lệnh sư đoàn chia nhau bám sát từng trung đoàn, từng đơn vị trực thuộc, kiểm tra huấn luyện và đi chuẩn bị chiến trường rất cụ thể. Tình hình đơn vị học tập khẩn trương, khí thế phấn khởi sôi nổi diễn ra trên từng bài tập. Cán bộ chiến sĩ đều quyết tâm học giỏi, tập tốt để chiến đấu giành thắng lợi, hạn chế tổn thất.
Đoàn cán bộ chúng tôi đư dự tập huấn ở Hà Nội về, có phái viên của Bộ tăng cường cùng vào giúp sư đoàn mở lớp tập huấn ngay cho cán bộ từ đại đội trở lên trong thời gian 10 ngày. Nội dung tấp huấn theo chỉ đạo hướng dẫn của Bộ, và chúng tôi vận dụng và thực tế các chiến lệ của các trận đánh trong chiến dịch hè năm 1970 ở Quảng Nam, Quảng Ngãi cho cán bộ học tập, nêu cả ưu điểm, khuyết điểm, thành công và thiếu sót về kĩ thuật chiến thuật, cách đánh để cán bộ liên hệ học tập. Khí thế bộ đội lên cao, tư tưởng giản chiến, sợ gian khổ, ngại hi sinh được khắc phục. Nguyện vọng được về thăm quê miền Bắc cũng không ai đặt ra nữa, mà chỉ tập trung cho đợt học tập sẵn sàng chiến đấu.
Trong những ngày ở Mường Phìn, một niềm vui mớiđối với sư đoàn la đồng chí Võ Chí Công, - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy V đi đự hội nghị Trung ương ghé vào thăm sư đoàn, trực tiếp động viên từng đơn vị. Sau đó đồng chí Chu Huy Mân - Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu trên đường đi dự hội nghị cũng đã ghé thăm sư đoàn. Cả hai đồng chí thăm viếng, động viên, gặp trực tiếp cán bộ từ tiểu đoàn trở lên, thông báo tình hình trực tiếp chiến trường Khu 5 trong lúc sư đoàn xa Quân khu. Tình cảm sâu đậm của đồng chí lãnh đạo cùng chia ngọt xẻ bùi, chịu đựng gian khổ trên dải đất Khu 5 thân yêu đã làm vơi nỗi nhớ quê hương, nhớ đồng đội đang chiến đấu ở miền Nam, của cán bộ chiến sĩ sư đoàn. Đồng chí Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu biểu dương những thành tích sư đoàn đã đạt được trong thời gian hành quân đến địa điểm mới, đường đi phải vượt sông suối, núi đèo, đưa gọn được đội hình sư đoàn đi đến đích, triển khai xây dựng và huấn luyện đạt thành tích tốt. Hai đồng chí lãnh đạo nhắc nhở, dặn dò cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn không chủ quan thỏa mãn và phải nỗ lực vượt bậc trong xây dựng, thi đua với đơn vị bạn ở chiến trường mới, phát huy truyền thống của Khu 5 gian lao nhưng anh dũng. Tiếp thu những lời dặn dò, động viên của lãnh đạo cấp trên, Bộ Tư lệnh sư đoàn chúng tôi đã tổ chức học tập những huấn thị ấy cho cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn, tạo nên luồng sinh khí thi đua mới, quyết tâm mới xứng đáng với lòng tin của Đảng.
Đầu tháng 12/1980, công việc huấn luyện, xây dựng bộ đội đưa vào nề nếp chính quy khá tốt, việc chuẩn bị chiến tròng trong khu chiến được phân công cơ bản đã hoàn tất, nhưng đơn vị không dừng lại ở thành tích đạt được. Cùng thời gian này sư đoàn trưởng Hoàng Anh Tuấn được Bộ Tư lệnh Quân khu điều về làm Tham mưu trưởng Quân khu. Đồng chí Nguyễn Chơn, sư phó được cấp trên đề bạt làm sư trưởng. Sau khi trung đoàn 31 hành quân vào Nậm Bạc trở lại chiến trường Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh sư đoàn 2 nhận tiếp lệnh của Bộ Quốc phòng, lệnh cho sư đoàn 2 sắp xếp cử một đoàn cán bộ từ cấp tiểu đoàn trưởng trở lên đến sư đoàn, do đồng chí Nguyễn Chơn, sư trưởng, Bùi Tùng phó chính ủy sư đoàn dẫn đầu lên đường trở lại Tây Nguyên, chuẩn bì kế hoạch tác chiến, còn đại bộ phận sư đoàn tiếp tục huấn luyện chờ lệnh mới của Bộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét