LÍNH SƯ 2 CÓ LỆNH LÀ ĐI, ĐÃ ĐI LÀ ĐÉN, ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

… ĐẾN TIÊU DIỆT TRUNG ĐOÀN 2 SƯ ĐOÀN 1 NGỤY


Trích từ cuốn hồi ký " Chỉ có một con đường " của Trung tướng Nguyễn Huy Chương


Điểm cao 660 nằm phía nam điểm cao 723, ở phía đông đường ống dẫn dầu và đường Nava -con đường mang tên của một tên tướng Pháp khi xâm lược Đông Dương. Con đường này cách Bản Đông 4km.
Sau khi trung đoàn 2 sư đoàn 1 bỏ điểm cao 748 trên dãy Phú Rệp chạy về điểm cao 660, cả trung đoàn 2 sư đoàn 1 của ngụy đều chiếm giữ dãy núi Phu-ra-teng, trong đó có tiểu đoàn 2 ở điểm cao 660, tiểu đoàn 3 ở điểm cao 654, tiểu đoàn 4 ở Phu-ra-teng. Riêng tiểu đoàn 1 và trung đoàn bộ, trung đoàn 2 ở điểm cao 462. Quân số theo biên chế mỗi tiểu đoàn có 490 tên. Trong suốt quá trình đổ quân càn quét ở đường 9 - Nam Lào hơn một tháng qua chúng đã bị
đánh diệt, tiêu hao, mỗi tiểu đoàn chỉ còn khoảng 400 tên. Chúng co lại thành 3 cụm: Đồi Yên Ngựa, điểm cao 651, và 660. Tại đây, trung đoàn 2 ngụy được máy bay phản lực ném bom yểm trợ vòng ngoài, trên điểm cao 660, quân ngụy phân tán rút lẻ tẻ.

Về phía sư đoàn 2, Quân khu 5, sau khi cho 2 tiểu đoàn 60 và 90, trung đoàn 1 và các đơn vị pháo, cối phối thuộc bôn tập, cơ động chiến đấu, liên tục quần lộn với địch trên đường đến điểm cao 660. Địa hình trên đường đến điểm cao 600 dốc đứng, trơn trợt khó đi, cứ 15’ một lần, B52 rải bom ngăn chặn, có lúc đội hình trung đoàn 1 và các đơn vị phối thuộc vừa qua khỏi chừng 100m thì bom địch ầm ầm nổ phía sau. Có lúc đội hình vừa dừng lại nghỉ chân thì bom nổ trước mặt. Nắm chắc quy luật đánh chặn của địch, trung đoàn 1, đã tránh được không để B52 đánh trúng đội hình.

11 giờ trưa ngày 17/3/1971, bna chỉ huy trung đoàn 1, nhận được tin sư đoàn thông báo: “Toàn bộ trung đoàn 1 ngụy phòng thủ ở điểm cao 723 đã bị tiêu diệt”. Chiến công đó càng thôi thúc trách nhiệm của trung đoàn, đôi chân cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 1 lại săn dòn trên đường bôn tập, vượt qua những hố bom B52, những đoạn đường rừng cây gãy đổ ngổn ngang, hết qua suối lại trèo dốc, leo đèo. Tình thương yêu đồng đội, tình “huynh đệ chi binh” đã dìu dắt nhau vượt qua hiểm nguy, gian khổ mong sớm tiếp cận, xác định địa hình, nghiên cứu trận địa của địch trên điểm cao 660. Tất cả đã được tiến hành trong bóng đêm. Người đi sau, bám theo người đi trước từ ánh sáng của chiếc lá phát quang gắn trên vành mũ tai bèo. Các mũi quân của trung đoàn đã bí mật hoàn thành công tác xâm nhập, nghiên cứu vị trí đóng quân của địch trên điểm cao 660. 3 giờ đêm ngày 18/3, các đơn vị tấn công điểm cao 660 được lệnh áp sát mục tiêu. Quân địch không hề hay biết.

Trưa ngày 18/.3, tiểu đoàn 3 ngụy ở điểm cao 651 Phu-ra-teng kéo xuống phía đông chân điểm cao 660, theo đường Nava để chạy về điểm cao 462, chỉ huy sở của trung đoàn 2 và tiểu đoàn 1 ngụy. Bộ phận đi đầu của chúng vừa đến ngã tư đường ống dẫn dầu, thì từ các trận địa bố trí sẵn, các chiến sĩ của đại đội 6, tiểu đoàn 60 và đại đội 10, tiểu đoàn 90 bất ngờ nổ súng. Một lần nữa các chiến sĩ của sư đoàn lại vượt lên trước quân thù trong cuộc đấu trí và đấu lực căng thẳng. Bị đánh bất ngờ, hàng ngũ quân địch trở nên hỗn loạn. Nhiều tên địch chết gục tại chỗ. Số sống sót hốt hoảng chạy ngược trở lại và nhập vào 3 cụm lớn ở sườn phía đông điểm cao 660, 651 đông bắc Phu-ra-teng.

13 giờ ngày 19/3, nhận lệnh của sư đoàn, trung đoàn 1 tập trung pháo cối, bắn mạnh lên điểm cao 651 và 660, đội hình quân địch ở đây bị pháo ta đánh rã từng mảng. Sau khi pháo kích, từng bộ phận nhỏ của trung đoàn tiếp cận tiến lên điểm cao 660 đánh tràn xuống, một lần nữa quân địch bị ép dồn xuống chân đồi. Quân ta được lệnh mở rộng vòng vây hướng đường 35 cho địch dồn về điểm cao 462, chờ trực thăng hốt chạy Khi máy bay lên thẳng bay rà lên đỉnh cao 462, trong lúc đó trận địa 12,7mm và hỏa khí bộ binh của quân ta kiểm soát chặt từng vùng trời trên mặt đồi, diệt cắt bọn máy bay lên thẳng không cho chúng hạ cánh bốc quân. Bọn trực thăng liều lĩnh hạ cánh, bọn địch vừa bám máy bay thì quân ta nổ súng. Mũi quân của tiểu đoàn 60 trung đoàn 1, thọc thẳng vào phía tây Phu-ra-teng, đánh lên đồi Yên Ngựa, cắt lực lượng địch ra và đẩy chúng xuống cân đồi 660, tạo thế cho trận địa đón lõng của tiểu đoàn 90 trung đoàn 1, tiêu diệt chúng.

Cuộc hành quân đánh phá đường 9 - Nam Lào đẩy tham vọng của Mĩ - ngụy vào thế khố khốn đốn. Cụm quân địch ở Bản Đông bị bao vây. Đường 9 bị cắt đứt nhiều đoạn. Cánh quân phía nam bị đánh tan tác. Dù muốn dù không, chúng cũng phải rút chạy và bằng mọi chác rút chạy nhanh khỏi sự sa lầy bi thảm. Đây là thời cơ thuận lợi để tiêu diệt lớn sinh lực địch và phải đánh nhanh, nếu không chúng sẽ tháo chạy. Đêm 19/3, Thường vụ Đảng ủy sư đoàn họp nhận định tình hình thế trận và đi đến quyết định:


- Tập trung hỏa lực bắn phá sát thương lớn quân địch ở điểm cao 660, 651, Phu-ra-teng, đồng thời mở rộng vòng vây nhử địch xuống tung lũng để dứt điểm.


- Tích cực bắn máy bay, không cho địch tháo chạy bằng đường không, đồng thời tổ chức trận địa phục kích bí mật dọc bờ sông Sêpon, đề phòng địch bất ngờ cho máy bay xuống bốc đồng bọn ở hướng này.



Trong tình thế bị bao vây 4 mặt, mở sáng ngày 20/3, tàn quân địch lại mở đường máu tháo chạy. Cụm quân địch ở điểm cao 651 vưa tuột xuống đến gần chân đốc, liền bị đại đội 11, tiểu đoàn 90 của ta chặn đánh, 2 đại đội của tiểu đoàn 5 quận ngụy bị diệt, số còn lại lủi vào trong rừng trốn thoát. Bọn địch ở 660 và Phu-ra-teng tháo chạy về phía đông bắc liền bị đại đội 7, của tiểu đoàn 60 chặn đánh. Không chạy thoát được, cả bọn liền lùi lại và đóng thành một cụm lớn ở sườn đông Phu-ra-teng. Pháo binh ta liên tục bắn phá sở chỉ huy trung đoàn 2 ngụy ở điểm cao 462. Trận địa pháo của quân địch hoàn toàn bị tê liệt. Quân địch hết đường tháo chạy, vội vã cụm lại và tung hỏa mù phân tuyến cho phi cơ đánh bom. Tiếng nổ của bom liên hồi, trận địa mịt mù khói lửa. Đại đội còn lại của tiểu đoàn 5, trung đoàn 2 ngụy thừa cơ vượt khỏ vòng vây chạy đến đường Nava. Trực thăng địch hạ cánh bốc chúng chạy trốn, cùng lúc đó, máy bay lên thẳng cũng hạ cánh xuống điểm cao 462 để cứu thoát bọn chỉ huy trung đoàn 2 ngụy. Quyết không cho địch trốn thoát. Từ khắp các sườn đồi, khe suối tất cả các cỡ súng của ta tập trung bắn mạnh vào các tốp máy bay lên thẳng của địch. Một số chiếc liều lĩnh sà xuống cách mặt đất chừng 5, 6m, quăng thang dây cho đồng bọn leo lên. Bọn chúng chưa kịp bám vào thang máy bay, thì máy bay đã bị trúng đạn lao luôn xuống đất.

Đêm 20/3, sau khi hội ý với Chính ủy trung đoàn Nguyễn Tá và Trung đoàn trưởng Trần Quang Lập, sư đoàn quyết định đưa tiểu đoàn 40 vừa mới từ điểm cao 723 về, phối hợp với đại đội 7, tiểu đoàn 60 hình thành 2 mũi tiến công vào các cụm quân địch. Lực lượng còn lại đón lõng tiêu diệt những toán quân địch trên đường tháo chạy.


3 giờ 30’ ngày 21/3/1971, trận tiến công dứt diểm trung đoàn 2 bắt đầu. Sau một loạt pháo chuẩn bị, bộ đội ta đồng loạt xung phong. Tiểu đội trưởng Nguyễn Ngọc Lũy, dẫn đầu tiểu đội đánh thốc vào đội hình quân địch diệt và bắt 50 tên. Riêng Lũy bắt 17 tên. Ở mũi tiến công khác, tân binh Nguyễn Khắc Hoàng, trận đầu ở điểm cao 723 đã lập công xuất sắc, diệt 16 tên ngụy. Trong trận này, Hoàng đã cùng đồng đội đánh thẳng vào sở chỉ huy tiểu đoàn địch. Phát hiện một tên ngụy to béo trong hang đá chạy ra, Hoàng liền đuổi theo, mưu trí và dũng cảm bắt sống được đối phương. Đó chính là tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 ngụy Nguyễn Xuân Huế, tên sĩ quan này vừa được bọn chỉ huy cuộc càn thăng cấp tại trận, từ thiếu tá lên trung tá do hung hăng đọ sức với quân ta (tên Huế) bị trung đoàn Ba Gia bắt sống và phóng thích trong chiến dịch đánh địch ở Sơn Tịnh năm 1965 (lúc đó tên Huế là đại úy).


Sau hơn 5 giờ chiến đấu quyết liệt, đội hình của trung đoàn ngụy bị vỡ tung. Phần lớn quân địch đã bị tiêu diệt. Một số bị bắt sống. Quân ta vừa lùng quét, vừa buộc tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 ngụy dùng máy PRC 25 bắt liên lạc với bọn chỉ huy của chúng kêu gọi ngưng ném bom vào trận địa và kêu gọi đồng bọn đầu hàng. Trên không trung, từng bầy rực thăng và phản lực vẫn quần lượn gầm rít, nhưng không dám bắn phá, vì không phân rõ đâu là đồng bọn, đâu là đối phương. Lúc này, cả trung đoàn 1, sư đoàn 2 quân giải phóng từ anh nuôi, y tá, văn thư đến các đơn vị chiến đấu đều ra trận địa bắt tù binh, thu vũ khí.


Trận tiêu diệt trung đoàn 2 ngụy kết thúc, ta tiêu diệt và bắt sống gần 1.300 tên địch, diệt gọn tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 và 2 đại đội của tiểu đoàn 5, thu hàng trăm súng, có 4 đại bác 105mm, 54 máy PRC 25, bắn rơi 36 máy bay. Tuy nhiên, do trận đánh kéo dài, quân dịch dùng máy bay lên thẳng đã bốc được bọn chỉ huy trung đoàn ngụy tháo chạy, một vài đại đội khác của địch cũng luồn rừng trốn thoát.


Bị thiệt hại nặng về sinh lực và phương tiện chiến tranh, các bộ phận quân địch ở Bản Đông cũng bị tiêu diệt, ta bắt sống tên Đại tá Nguyễn Văn Thọ, lữ trưởng lữ đoàn dù ngụy. Quân ta được lệnh tiến hành truy kích phía sau và chặn đánh phía trước tiêu diệt các cụm quân địch ở Ka Ki, Huội San, Lao Bảo. Ngày 22/3, các đơn vị địch còn lại ở Bản Đông vứt bỏ toàn bộ xe tăng, pháo, cơ giới vượt sang phía nam sông Sêpon, chạy trốn vào rừng.


Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đường 9 - Nam Lào, có tầm quan trọng của một trận quyết chiến chiến lược của địch, đã thất bại hoàn toàn.


Với thắng lợi điểm cao 723, 660, tiêu diệt trung đoàn 1, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 2 sư đoàn 1 ngụy. Như vậy, sư đoàn 2 quân giải phóng Khu 5 của ta đã đánh quỵ sư đoàn 1 của ngụy. Với thắng lợi này, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã góp phần tích cực vào chiến thắng vang dội của quân ta trên chiến trường đường 9 - Nam Lào.


Đánh giá hoạt động của sư đoàn trong chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kết luận:


“Nhận trọng trách ở hướng tây và tây nam của mặt trận, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã hợp đồng với các đơn vị bạn, đã hoàn thành xuất sắc cả hai nhiệm vụ: Bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh ở khu vực Sêpon, tiêu diệt được nhiều sinh lực, phá hoại nhiều phương tiện chiến tranh của địch, nêu cao được truyền thống của Quân khu 5. Các đồng chí đã nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, cơ động nhanh chóng, đoàn kết hiệp đồng với các đơn vị bạn. Tích cực chủ động, mưu trí, linh hoạt nắm vững thời cơ, liên tục chiến đấu, anh dũng lập công. Đặc biệt là tác chiến, kết hợp với binh vận, đánh thắng 2 trận lớn tiêu diệt trung đoàn 1 và đánh thiệt hại nặng trung đoàn 2 của sư đoàn 1 ngụy trên điểm cao 723. Chiến công của các đồng chí sư đoàn 2 Quân khu 5, đánh dấu một bước tiến bộ quan trọng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của chiến dịch lịch sử phản công đường 9 - Nam Lào trong mùa xuân 1971”
(1
Kết thúc hai trận đánh ở điểm cao 723 và 660, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn mở hội nghị tổng kết chiến dịch và bàn thống nhất nhiệm vụ đánh địch trong mùa hè, đồng thời cử tôi ra Quảng Bình trực báo xin ý kiến của Bộ Tư lệnh mặt trận.

Cuộc trực báo này do Đại tướng Tổng Tư lệnh quân đội, Bộ Trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp chủ trì. Tôi được các thủ trưởng cho báo cáo hướng chiến dịch sư đoàn 2 Quân khu 5 đảm nhận, tôi trình bày một tiếng đồng hồ về các mặt, từ nhận lệnh hành quân đến địa điểm xây dựng, củng cố đơn vị và ra quân theo lệnh của bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh mặt trận. Sư đoàn 2 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện tốt các chính sách thương binh liệt sĩ, bảo đảm bí mật nơi đóng quân để giành thắng lợi và thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách tù hàng binh.


Sau khi báo cáo xong phân sư đoàn tham gia chiến dịch và báo cáo tiếp thêm phương hướng công tác mới của sư đoàn, tôi nói: “Trong điều kiện bộ đội đang sung sức, quân đủ, súng đủ, lương thực không thiếu, đề nghị cấp trên cho sư đoàn mở chiến dịch hè vào 2 hướng:


1. Đề nghị cho sử dụng xe tăng, pháo binh của Bộ tăng cường cho sư đoàn đánh vào cao nguyên Bô-lô-ven giải phóng vùng I-Tu, Bản Nhik, thị xã Atôpơ. Hướng này do Tư lệnh sư đoàn Nguyễn Chơn và đồng chí Bùi Tùng, phó chính ủy sư đoàn trực tiếp chỉ huy trung đoàn 1 tác chiến.


2. Sử dụng trung đoàn 141 do trung đoàn trưởng Đỗ Châu Sa và Nguyễn Hào, Chính ủy trung đoàn cùng với lực lượng của sư đoàn 320 tăng cường, đồng chí Dương Bá Lợi, sư đoàn phó, Sư đoàn 2 chỉ huy, mở mũi tiến công giải phóng Phalan, Đồng Hến, là giải phóng cả một vùng dân cư rộng lớn của miền Trung Lào, tạo thuận lợi cho cách mạng hai nước chi viện kịp thời cho nhau trong chiến đấu. Nếu các thủ trưởng đồng ý tôi sẽ điện ngay về cho đơn vị ra quân.


Các thủ trưởng Bộ Tư lệnh nghe tôi trình bày nguyện vọng và hướng phát triển của sư đoàn đã đồng ý ngay.


Trưa hôm đó, ban tiếp tân mời tôi nghỉ cạnh phòng của Đại tướng Tổng Tư lệnh. Chỉ cách một tấm phên bằng nứa, đại tướng trao đổi với Tư Lệnh Lê Trọng Tấn, và Chính ủy mặt trận Lê Quang Đạo: “Chúng ta là những người tướng chỉ huy quân đội có một độ ngũ cấp dưới tích cực và quyết tâm đánh giặc, vừa dứt chiến dịch đã đề nghị cấp trên cho đánh tiếp. Đây là một điều đáng tự hào của Đảng của quân đội”. Tôi hiểu những lời khen gián tiếp của các thủ trưởng cấp trên, tôi tự hứa với mình càn phải cố gắng hơn nữa để xứng đáng với nhiệm vụ được giao và được cấp trên tin tưởng.


Tôi về lại sư đoàn đúng lúc cả đơn vị đã triển khai và phối hợp với bộ đội Phathet Lào tiến công địch, mở rộng hành lang chiến lược miền Trung và Hạ Lào.


Thất bị nặng nề của quân ngụy Sài Gòn càng làm quân ngụy Lào hoang mang. Tuy nhiên, chúng vẫn chủ quan, cho rằng ta còn phải củng cố sau một đợt tác chiến dài ngày, không đủ sức đánh tiếp. Chúng có biết đâu ta đã tận dụng thời cơ, đánh địch trong thế bất ngờ, đơn vị vừa dứt chiến đã lên đường, và sau nửa tháng toàn sư đoàn đã xuất quân.


Mùa khô ở đất Lào, nắng và nóng. Đường hành quân xa thiếu nước để ăn uống, tắm giặt. Ngoài trang bị chiến đấu, trên vai của các chiến sĩ phải có 7 ngày gạo, 7 ngày lương khô và nước uống. Nước đựng trong bi-đông, trong ống bương, trong bọc ni lông, dụng cụ gì chứa nước được đều dùng để mang nước. Để giữ bí mật, có chặng hành quân 6 ngày liền bộ đội phải ăn cơm nắm, lương khô. Gian khổ, vất vả nhưng với tinh thần phấn khởi sau thắng lợi đường 9, tất cả cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn đều có mặt ở vị trí tập kết đúng thời gian.

Cao nguyên Bô-lô-ven là địa bàn chiến lược quan trọng của Cách mạng Lào. Từ khi đế quốc Mĩ thực hiện chiến lược Đông Dương hóa chiến tranh, chúng liên minh tập hợp bọn phản động khu vực, đã chiếm lại các vùng giải phóng trên cao nguyên này. Nhiệm vụ cua sư đoàn 2 là quyết tâm tấn công giải phóng vùng đất đai rộng lớn ở đây, gây ảnh hướng tốt về chính trị, xây dựng lòng tin, làm cho đồng bào các bộ tộc Lào, bị địch kèm kịp, tin tưởng ủng hộ quân giải phóng., hướng về mặt trận Lào yêu nước, góp phần củng cố tình đoàn kết tình đoàn kết chiến đấu Việt Lào, là yêu cầu cấp thiết đối với cán bộ chiến sĩ sư đoàn.

Xác định tầm quan trọng và bức thiết của nhiệm vụ, hội nghị Đảng ủy sư đoàn quyết nghị lãnh đạo cán bộ, chiến sĩ, toàn sư đoàn, phát huy và làm tốt công tác dân vận đối với đồng bào các bộ tộc Lào anh em. Được cán bộ lãnh đạo ở địa phương của bạn và cán bộ quân tình nguyện Việt Nam thay nhau phổ biến, hướng dẫn cho cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn về phong tục tập quán, cách quan hệ giao tiếp với nhân dân, thực hiện các chính sách cụ thể đối với các vùng giải phóng. Cán bộ chỉ huy, chiến sĩ trinh sát cùng với cán bộ cơ sở vừa chuẩn bị lùng đánh bọn biệt kích, thám báo, tạo thế triển khai lực lượng, vừa tranh thủ vận động nhân dân tham gia. Từ thái độ đúng đắn và tác phong giản dị, kỉ luật nghiêm minh của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 2, bước đầu xây dựng được lòng tin trong dân chúng.


Các đơn vị địch ở Pắk Soòng là mục tiêu tiến công của sư đoàn Pắk Soòng ở phía đông, các thị xã Pắk Xế 20km, là tấm lá chắn, án ngữ Pắk Xế. Lực lượng địch ở đây thường xuyên có tiểu đoàn BV20 và tiểu đoàn BV43. Phát hiện lực lượng ta, địch tăng thêm các tiểu đoàn BV46 và BV25. Tuy lực lượng đông, nhưng địch chỉ dùng một đại đội giữ cứ điểm Pắk Soòng, 2 đại đội bảo vệ tiểu khu Pắk Xế. Lực lượng còn lại của chúng thường xuyên cơ động bên ngoài.


Lực lượng địch tuy đông nhưng sức chiến đấu yếu, khi bị đánh mạnh thường phân tán chạy trốn để tránh bị tiêu diệt.


Trận đánh thị trấn Pắk Soòng bắt đầu lúc 1 giờ ngày 16 tháng 5 năm 1971. Sau 4 giờ tiến công áp đảo, tiểu đoàn 90 của trung đoàn 1 chiếm được cứ điểm Pắk Soòng. Cùng lúc tiểu đoàn 40 cũng làm chủ hoàn toàn tiểu khu Pắk Xế. Các đơn vị địch đang cơ động bên ngoài vội phân tán lẩn tránh trong rừng. Ta vừa khép chặt vòng vây, vừa tích cực lùng đánh quân địch. Quân địch liều chết chạy về hướng Phu-dơ-tua. Ta làm chủ thị trấn, nhưng tất cả nhà dân đều đóng cửa vì sợ. Dân chúng ở đây gồm nhiều dân tộc như Lào, Việt, Pháp, Hoa… phần lớn làm nghề buôn bán, một số ít trồng cây cà phê. Vì ở trong vùng địch kèm kẹp lâu ngày, thường xuyên bị địch tuyên truyền, bưng bít, một số bị đầu độc, nên quần chúng hiểu biết về cách mạng có nhiều sai lệch. Tháo gỡ tâm trạng nghi ngờ của nhân dân không gì bằng hành động thực thực tế. Đơn vị chiếm lĩnh vị trí nào ở nguyên vị trí đó, các chiến sĩ vừa luân phiên cảnh giới, vừa lo quét dọn sân vườn, cho lợn, vịt, gà ăn. Mọi tài sản của dân từ xe đạp, xe máy, xe hợi, đến đồ dùng, cây ăn quả đều được bảo vệ chu đáo. Trong lúc đó, các đội công tác của bạn đến từng gia đình, hoặc dùng loa kiên trì giải thích chính sách của mặt trận Lào yêu nước.


Những cánh cửa đóng chặt dần hé mở. Trẻ em lấp ló trong hiên nhà, góc vườn và ngỡ ngàng nhìn ngó. Đôi mắt trẻ thơ lại là đôi mắt tinh tường trong việc nhận xét người hiền, kẻ dữ. Bị thu phục trước những nụ cười thân thiện và ánh mắt trìu mến của những người chưa quen biết,; tò mò trước công sự, chiến hào, súng to, súng bé, các em dần xích lại quấn quít bên cạnh các anh bộ đội giải phóng trẻ trung, hiền lành, lúc nào cũng niềm nở thân thiện với các em.


Quan sát và theo dõi mối thân tình giữa anh bộ đội với con em của mình, nhân dân đã kịp nhận thấy là: “Tha hán Việt
Nam nưa, Tha hán Hồ Chí Minh” (Bộ đội Việt Nam, bộ đội Hồ Chí Minh) là người tốt thật mà. Khu phố người Việt nói với nhau: Bộ đội cụ Hồ đã đến. Hình ảnh thân thương của anh bộ đội cụ Hồ những ngày chống Pháp lại hiện lên trong trí nhớ của người già. Mấy ngày sau đó, nhà nhà đều mở rộng cửa. Nhiều gia đình đề nghị với cán bộ cho bộ đội vào nghỉ trong nhà. Trạm thủy điện của thị trấn hoạt động bình thường trở lại. Ánh điện bừng sáng. Thị trấn bắt đầu thức dậy trong buổi bình minh của cuộc sống mới, cuộc sống của những ngày giải phóng tràn ngập niềm vui, lời ca tiếng hát chan hòa tình Việt - Lào anh em.

Kỉ luật nghiêm, tư cách đứng đắn, giao tiếp hòa nhã, thân mật của cán bộ, chiến sĩ, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng việc tiếp xúc với nhân dân địa phương vẫn thuận lợi. Được sự giúp đỡ của bà con Việt kiều, các chiến sĩ ta vừa sẵn sàng đánh địch phục kích, vừa giải thích cho nhân dân địa phương về chính sách, về tình hữu nghị Lào - Việt. Kể chuyện Bác Hồ. Kể chuyện quê hương hai nước tựa lưng trên dãy Trường Sơn, mưa nắng có nhau như Bác Hồ đã nói: “Việt - Lào hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long”. Sau 20 ngày công tác ở thị trấn Pắk Xế, cán bộ và chiến sĩ của sư đoàn đã làmcho nhân dân Pắk Soòng hiểu rõ hơn về cách mạng, góp phần tô thắm thêm mối tình chiến đấu Việt - Lào.
Thắng lợi bước đầu trong việc mở rộng vùng giải phóng, xây dựng ảnh hưởng chính trị trong quần chúng, càng cổ vũ thêm quyết tâm iệt địch của toàn sư đoàn.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tiêu diệt gọn tiểu đoàn ngụy Lào? So với quân Mĩ, quân Nam Triều Tiên, và quân ngụy Sài Gòn, sức chiến đấu của quân ngụy Lào thua kém về nhiều mật. Sư đoàn đã diệt gọn từng chiến đoàn, trung đoàn quân ngụy Sài Gòn, tiểu đoàn quân Mĩ, quân Nam Triều Tiên nhưng lại chưa tiêu diệt gọn được đơn vị quân ngụy Lào.


Trong chiến tranh, rút chạy trước đối phương thể hiện thế yếu, thế thua, là biểu hiện sự bạc nhược về tinh thần, tan rã về tổ chức, là biểu hiện của sự chiến bại. Nhưng đối với quân ngụy Lào, chạy thoát thân, chạy là để bảo toàn lực lượng lại là một chủ trương chiến lược. Binh lính và sĩ quan của chúng được phép tháo chạy khi giáp chiến với bộ đội Việt
Nam… Chúng chạy bất kể thời tiết nắng, mưa, bão lụt, bất kể địa hình rừng rậm, núi cao, khe sâu hay dốc đứng, vì thế tiêu diệt gọn một tiểu đoàn cùng một lúc là rất khó. Đánh quân ngụy Lào, cần phải hoàn toàn bí mật, bất ngờ, khiến cho chúng không kịp trở tay. Đồng thời phải vây thật chặt, vây nhiều lớp, dùng lực lượng ít nhưng tinh nhuệ lót sẵn ở những khe sâu, dốc đứng, nơi chúng thường lợi dụng tài leo núi để vượt qua. Từ những kết luận đó, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn đã lãnh đạo đơn vị chuẩn bị mọi điều kiện để giáng cho địch những đòn tiêu diệt tốt hơn.

Mất Pắk Soòng, thị trấn Pắk Xế bị uy hiếp mạnh. Lực lượng tại chỗ của chúng không đủ sức chiếm lại Pắk Soòng. Dưới sự thúc ép của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, bọn phản động cực hữu trong giới cầm quyền Thái Lan trắng trợn đưa quân sang đánh thuê cho đế quốc Mĩ. Đầu tháng 6/1971, 3 tiểu đoàn quân Thái Lan và một tiểu đoàn hỗn hợp Lào - Thái đến Pắk Xế. Vừa đến nơi, toàn bộ lực lượng địch di chuyển luôn đến Lào Nâm. Tại đây chúng hợp quân với hai tiểu đoàn ngụy Lào từ Pắk Soòng chạy về. Tiếp theo, quân địch lại nhích đội hình xuống Y Tu, Bản Nhik ở phía tây Pắk Soòng 20km, ý định của địch là tổ chức một cụm điểm mạnh để chặn lực lượng ta tiến về hướng Pắk Xế, đồng thời chuẩn bị phản công đánh chiếm Pắk Soòng.


Y Tu, Bản Nhik nằm giữa hai con suối lớn là Huội Chăm Pi và Huội Băng Liêng. Cả hai con suối đều có lòng rộng từ 20 mét đến 30 mét, có chỗ rộng 560 mét. Nước suổi chảy siết không thể lội qua được. Bờ suối lại là vách đá thẳng đứng, với chiều cao từ 10 đến 15 mét, có chỗ 30 mét, không thể bám để trèo lên được. đó là vật cản thiên nhiên rất lợi hại, gây cho ta nhiều khó khăn trong quá tình phát triển tiến công.


Tháng 6, cao nguyên Bô-lô-ven đang mùa mưa. Sau 2 ngày hành quân, đại đội 9, tiểu đoàn 90 đã đến Huội Chăm Pi. Nước suối dâng cao, bộ đội làm bao nhiêu cầu đều bị nước cuốn trôi tất cả. Sáng ngày 10 tháng 6, đơn vị mới tìm được đoạn suối hẹp, có cây gõ vẫn ngang. Đại đội trưởng liền cho làm dây vịn, đưa đội hình qua suối chiếm lĩnh địa bàn đúng thời gian.


Hành quân đến Huội Băng Liêng, tiểu đoàn 90 liền tổ chức vượt suối. Sau một ngày tìm mọi cách khắc phục, đơn vị vẫn không qua được. Trung đoàn trưởng Trần Quang Lập, cùng với đơn vị, điện xin chỉ huy sư đoàn lùi thời gian nổ súng lại một ngày.


Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh sư đoàn quyết định sử dụng số vệ binh, trinh sát, thông tin trong bộ phận đi chuẩn bị chiến trường tổ chức thành một mũi đột kích, thay cho mũi tiến công của tiểu đoàn 90 và lệnh cho Trung đoàn trưởng trung đoàn Ba Gia phải tổ chức ngay một đại đội gọn, nhẹ, cơ động nhanh, vượt lên trước cho kịp giờ nổ súng.


Sau nửa ngày lùng sục, tiểu đoàn đã tìm được chỗ lòng suối hẹp và đốn ngả một cây to ba người ôm vắt ngang lòng suối. 16 giờ ngày 10/6 bộ đội vắt đầu vượt cầu.


Trong lúc các mũi tiến công của ta đang tổ chức chiếm lĩnh trận địa, thì 6 giờ ngày 11 tháng 6, quân địch từ Y Tu đánh xuống Pắk Cụt hòng tiến thêm một bước nữa trong kế hoạch phản công chiếm lại Pắk Soòng.


Địch nống ra, đây là điều kiện để ta nghi binh thu hút, kiềm giữ lực lượng chúng ở bên ngoài, tạo thêm thuận lợi cho trận tiến công vào cứ điểm.


Một trung đội của tiểu đoàn 1 quân tình nguyện tổ chức chốt chặn quân địch ở trước Pắk Cụt. Sau một ngày chiến đấu ngoan cường, trung đội đã đánh bật tất cả các đợt tiến công của địch. Nhưng đơn vị cũng thương vong nặng. Toàn trung đội chỉ còn 4 đồng chí. Ngày 12/6 địch lại tiến công lên chốt. Thêm một chiến sĩ nữa bị thương. Nhưng ba tay súng dũng cảm của ta vẫn kiên cường trụ bám đánh bật liên tiếp hai đợt xung phong của địch. Hàng chục xác giặc nằm chồng chất lên nhau trước mép chiến hào.

Lợi dụng lúc địch đang chăm chú theo dõi diễn biến của trận đánh ở vòng ngoài, các mũi tiến công của ta bí mật và an toàn tiến sát mục tiêu.

16 giờ ngày 12 tháng 6, trận địa cối 120mm ở mũi tiến công hướng tây bắc, bắt đầu trút đạn xuống Bản Nhik. Những quả đạn đầu tiên rơi đúng ngay sở chỉ huy. Tên đại tá Bu Thoong và một số sĩ quan tùy tùng của địch chết gục tại hầm.

Thời tiết đã gây thêm khó khăn cho trận đánh. Trời mưa, trận địa sũng nước. Để chống lún, các chiến sĩ súng cối phải dùng cọc gỗ đường kính từ 10 đến 15 phân, dài từ 1,2 đến 1,5 mét đóng dày sít. Tuy vậy chỉ bắn được 5-67 viên, súng đã lún sâu đến gần 1 mét. Thế là phải vác súng lên đưa đến trận địa dự bị. Trận địa di chuyển liên tục. Bom và rốc két địch nổ quanh mình. Nhưng từng viên đạn cối của ta vẫn rơi chính xác vào cứ điểm địch.

18 giờ, cối vừa chuyển làn, mũi tiến công hướng tây bắc Bản Nhik do đồng chí Trung, quyền trưởng ban tác chiến sư đoàn và đồng chí Lợi, chính trị viên phó tiểu đoàn 90, nhanh chóng xung phong đánh chiếm, làm chủ cả khu vực và phát triển về phía đông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét