Đang chiến đấu trên chiến trường Khu 5, ngày 10-6-1970, Sư đoàn
2 nhận lệnh hành quân ra bắc Đường 9 nhận nhiệm vụ mới. Một nhiệm vụ thật đột
ngột khó tin. Sư đoàn 2 là đơn vị chủ lực của Quân khu 5, sao lại hành quân ra
tận bắc Đường 9. Bộ Tư lệnh Sư đoàn cho rằng: Cơ yếu dịch điện nhầm nên điện
hỏi lại Quân khu. Từ đầu dây bên kia, Tư lệnh Quân khu trả lời dứt khoát: “Đó
là mệnh lệnh, hãy nghiêm chỉnh chấp hành. Không hỏi lại!”.
Cuối tháng 6-1970, sư đoàn bắt đầu hành quân. Trung đoàn 141
được điều về đội hình của sư đoàn, thay cho Trung đoàn 21 tiếp tục đứng chân
chiến đấu ở Quảng Ngãi. Đến Binh trạm 61, sư đoàn được lệnh bàn giao lại toàn
bộ vũ khí nặng và đạn dược, sau đó theo Đường 559 Tây Trường Sơn hành quân ra
phía Bắc. Sau hơn một tháng hành quân, đến giữa tháng 8, toàn bộ sư đoàn đã tập
kết ở vùng rừng núi bắc Đường 9, thuộc huyện Mường Phìn, tỉnh Khăm Muộn (Lào).
Hội nghị bàn và quyết định phương án tác chiến
trong Chiến dịch Đường 9 –Nam
Lào. Ảnh tư liệu.
trong Chiến dịch Đường 9 –
Tháng 9, sư đoàn được bổ sung quân số. Lớp chiến sĩ mới đợt này
có trình độ văn hóa cao, phần lớn tốt nghiệp phổ thông cấp 3, có nhiều đồng chí
là sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Các tiểu đoàn đã đủ quân (hơn 500
quân), trung đoàn có hơn 2000 quân. Vũ khí, trang bị được trang bị mới,
đầy đủ và khá hiện đại.
Thời gian này trên cương vị sư đoàn phó, tôi cùng một số cán bộ
sư đoàn ra Bắc dự lớp tập huấn cán bộ quân khu, binh chủng, sư đoàn trong toàn
quân do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức. Ngày 24-8-1970, lớp
tập huấn khai mạc. Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đến phát
biểu chỉ đạo lớp tập huấn, xác định: Đợt tập huấn này phải xác định tư tưởng
đánh tập trung, hợp đồng binh chủng; phải đánh lớn, thắng to, đánh tiêu diệt
trung đoàn, chiến đoàn, sư đoàn địch…
Trong những ngày tôi đi tập huấn ở miền Bắc, Sư đoàn trưởng
Hoàng Anh Tuấn cùng một số cán bộ từ đại đội trưởng trở lên đi trinh sát thực
địa dọc tuyến Đường 9, từ Bản Đông đến Sê Pôn, Tha Mê… để nghiên cứu địa hình
trên thực địa và lập phương án đánh địch theo kế hoạch của cấp trên. Đoàn cán
bộ đối chiếu với bản đồ hầu hết các điểm cao, đồi trọc, khe suối trong khu vực;
chọn khu vực đặt trận địa hỏa lực và đo đạc phần tử xạ kích cho các trận địa.
Cũng thời gian này, sư đoàn sôi nổi bước vào đợt huấn luyện quân
sự, chính trị tương đối chính quy. Bộ Tổng tham mưu trực tiếp vạch kế hoạch và
chỉ đạo. Trường Sĩ quan Lục quân cử một đoàn cán bộ giúp sư đoàn tổ chức và
thực hành huấn luyện. Một số đơn vị pháo binh, cao xạ, xe tăng cũng được lệnh
của Bộ đến phối hợp tập luyện với sư đoàn. Đây là lần đầu tiên sư đoàn được
huấn luyện chiến thuật, chiến dịch có hiệp đồng binh chủng, với vũ khí trang bị
hiện đại. Một số cán bộ tiểu đoàn có tư tưởng cho rằng, ra Bắc là để nghỉ ngơi
nên tổ chức huấn luyện còn đơn giản. Song cán bộ sư đoàn đã sớm kiểm tra, phát
hiện và kiên quyết yêu cầu các đơn vị phải xây dựng bãi tập đúng yêu cầu, bảo
đảm huấn luyện có chất lượng.
Trinh sát nghiên cứu địa hình và huấn luyện đơn vị là việc làm
thường xuyên của bất kỳ người chỉ huy nào trong chiến trận, song đối với Sư
đoàn 2 đợt này thực sự là đợt có ý nghĩa trước khi bước vào trận đánh lớn hiệp
đồng binh chủng trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào.
Tháng 12-1970, đồng chí Hoàng Anh Tuấn, Sư đoàn trưởng được điều
động về làm Tham mưu trưởng Quân khu 5, tôi được trên đề bạt làm Sư đoàn
trưởng. Trung đoàn 31 hành quân trở lại chiến trường Tây Nguyên. Ngày
21-1-1971, khi mà địch chưa mở cuộc hành quân thì Sư đoàn 2 nhận được lệnh của
Bộ: “Triển khai đội hình chiến đấu, sẵn sàng đánh địch đổ bộ trong khu vực từ
Bản Đông đến Sê Pôn. Nhiệm vụ của sư đoàn là diệt nhiều sinh lực địch, bắn rơi
nhiều máy bay, bảo vệ vững chắc đường vận chuyển chiến lược…”.
Như vậy, trước khi tham gia trận đánh lớn, Sư đoàn 2 đã có sự
chuẩn bị rất chu đáo về mọi mặt như: Được bổ sung quân số, trang bị; được huấn
luyện về tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng; được nghiên cứu địa hình từ
trước khi địch đến và hoàn toàn chủ động đón đánh cuộc tiến công của địch ở địa
hình có lợi.
Qua việc Bộ chuẩn bị cho Sư đoàn 2 và sau này nghiên cứu, tôi
càng thấy sự chủ động, tầm nhìn xa của Quân ủy Trung ương và Tổng Tư lệnh
trong việc chuẩn bị cho chiến dịch Đường 9- Nam Lào cũng như cho việc tác chiến
tập trung, hiệp đồng binh chủng lớn của quân đội ta.
Đầu năm 1970, Bộ tổng Tham mưu dự kiến địch sẽ tiến công chia
cắt chiến lược trên 3 hướng: Một là Đường 9-Nam Lào, cắt đoạn Bản Đông-Sê
Pôn; hai là, phản công ra vùng Ngã ba biên giới và Hạ Lào; ba là, phản công
sang Cam-pu-chia. Trong đó, Đường 9-Bản Đông-Sê Pôn là hướng chủ yếu, địch hy
vọng cắt ta từ “cuống họng”, chặn nguồn chi viện tiếp tế từ “đầu nguồn”. Từ
nhận định trên, trên hướng Đường 9-Nam Lào, Bộ Chính trị và Thường trực
Quân ủy Trung ương xác định: Đây là địa bàn gần miền Bắc, có nhiều kho dự
trữ chiến lược, ta có điều kiện phát huy sức mạnh của các đơn vị chủ lực, tập
dượt chiến đấu hiệp đồng binh chủng và giao cho Bộ tổng Tham mưu trực tiếp chỉ
huy, điều hành chiến dịch phản công với lực lượng binh chủng hợp thành nhằm
giành thắng lợi lớn, đánh bại bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
của đế quốc Mỹ.
Do vậy, từ tháng 3-1970, Cục Tác chiến đã bắt tay vào chuẩn bị
kế hoạch chiến dịch, chủ yếu là nhận định tình hình, dự kiến sử dụng lực lượng
trên các hướng, chuẩn bị hậu cần-kỹ thuật. Tháng 10, hoàn thành tổ chức binh
đoàn chiến dịch B70, gồm các sư đoàn: 308, 304, 320 và một số đơn vị binh chủng
(đây là lần đầu tiên ta hình thành tổ chức binh đoàn chiến dịch, tương đương
quân đoàn). Tiếp đó, Bộ đã cử đoàn cán bộ có các đồng chí: Lê Quang Đạo, Phó
chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và đồng chí Hoàng Nghĩa Khánh, Cục phó Cục Tác
chiến vào Bộ Tư lệnh 559 và một số đơn vị phía Nam để phổ biến ý định của
Quân ủy Trung ương và công việc chuẩn bị chiến trường trên Đường 559, đồng
thời trực tiếp thu thập các ý kiến từ chiến trường.
Tháng 11-1970, kế hoạch chiến dịch được Quân ủy Trung ương
thông qua lần đầu, sau đó bổ sung và thông qua chính thức vào tháng 12-1970.
Tiếp đó, Quân ủy quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch do đồng chí
Tổng Tham mưu phó Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị Lê Quang Đạo làm Chính ủy, đồng chí Cao Văn Khánh làm Phó tư lệnh
chiến dịch, chỉ huy Binh đoàn 70.
Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: Đây là chiến dịch có ý nghĩa
quyết định về chiến lược và do Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp tổ chức và chỉ huy
đầu tiên ở phía Nam nên nhất định phải đánh thắng; phải nhân cơ hội này mà rèn
luyện bộ đội chủ lực trưởng thành lên một bước mới trong tác chiến tập trung
đánh lớn, hiệp đồng binh chủng.
Về tổ chức lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu xác định: Lực lượng ngăn
chặn, tạo thế gồm Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 và các đơn vị tại chỗ của Đoàn
559; Cụm lực lượng trên hướng chủ yếu phía bắc gồm Binh đoàn 70 (thiếu) và phần
lớn xe tăng, pháo binh chiến dịch; Cụm lực lượng trên hướng thứ yếu phía nam
gồm: Sư đoàn 324 (thiếu), Sư đoàn 2 và một bộ phận pháo binh, xe tăng, phòng
không chiến dịch; Lực lượng đánh địch ở phía sau gồm lực lượng tại chỗ của B5,
một số tiểu đoàn đặc công Bộ, Trung đoàn pháo binh 84 và Trung đoàn 2 Sư đoàn
324; Lực lượng đánh địch trên hướng phối hợp ở phía tây có Trung đoàn 48 Sư
đoàn 320 và lực lượng tại chỗ. Cho đến trước ngày địch mở cuộc hành quân lớn,
mọi công tác chuẩn bị của ta từ cấp chiến lược đến các đơn vị đã cơ bản hoàn
thành.
Trước giờ nổ súng chiến dịch, tôi nhận được điện trực tiếp của
đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh bộ đội Trường Sơn hỏi về tình hình đạn dược,
lương thực, thông tin đã bảo đảm chưa? Tôi vui mừng báo cáo: Bộ đội Trường Sơn
đã bảo đảm cho sư đoàn đầy đủ. Nhất định chúng tôi sẽ đánh thắng! Bên kia
đầu dây, giọng đồng chí Tư lệnh trầm ấm động viên: Phải kiên quyết chặn đứng,
bao vây, tiêu diệt không cho địch có đường về! Chúc Sư đoàn 2 giành thắng lợi.
Ngày 31-1-1971,
Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn bắt đầu cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh ra Đường
9-Nam Lào. Chúng đã huy động một lực lượng khổng lồ gồm hơn 40.000
quân nguỵ Sài Gòn, hơn 6000 quân Mỹ, với một lực lượng không quân, xe
tăng, thiết giáp, pháo binh yểm trợ(*), hùng hổ đổ quân đánh chiếm
các điểm cao dọc theo Đường 9, hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Sê Pôn, chiếm giữ
Đường số 9 đoạn Bản Đông-Sê Pôn lập thành tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương,
đe dọa miền Bắc Việt Nam, uy hiếp cách mạng Lào và bịt được ”con đường sống”
của ta vào chiến trường miền Nam.
Tuy nhiên, địch không ngờ rằng chúng đang lọt vào thế trận đã
giăng sẵn của ta. Các lực lượng tham gia chiến dịch được chuẩn bị kỹ càng đang
chủ động chờ chúng “chui đầu vào rọ” để tổ chức những trận đánh lớn, mang tính
quyết định.
(*) Lực lượng địch trên địa bàn chiến
dịch lúc cao nhất là 55.000 quân, gồm 15 trung đoàn bộ binh, 3 thiết
đoàn thiết giáp, 578 xe tăng, xe bọc thép, 318 pháo, 700 máy bay các loại.
Ngoài ra còn có hai binh đoàn quân nguỵ Lào.
Nguồn : ST
Đại tá Phạm
Hữu Thắng (Ghi theo lời kể của Thượng tướng Nguyễn
Chơn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét